Đôi lời cùng Giáo sư Nguyễn Đức Bình và góp ý với Đảng Cộng sản
Việt Nam
Nguyễn
Quang A
Sau khi đọc bài “Xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh” của giáo sư Nguyễn Đức Bình đăng trên báo Nhân dân ngày 23-2-2006 và được trích đăng trên Tuổi trẻ ngày 25/2/2006, tôi muốn có đôi lời trao đổi với Giáo sư mà chưa có ý định góp ý cho dự thảo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trình lên Đại hội X. Nay đọc lại bản thảo ban đầu, tôi thấy mình nên sửa đổi đôi chỗ và thêm một phần cuối, như phần kết luận, để bài viết có thể mang nội dung như tựa đề trên.
Sau khi đọc bài “Xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh” của giáo sư Nguyễn Đức Bình đăng trên báo Nhân dân ngày 23-2-2006 và được trích đăng trên Tuổi trẻ ngày 25/2/2006, tôi muốn có đôi lời trao đổi với Giáo sư mà chưa có ý định góp ý cho dự thảo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trình lên Đại hội X. Nay đọc lại bản thảo ban đầu, tôi thấy mình nên sửa đổi đôi chỗ và thêm một phần cuối, như phần kết luận, để bài viết có thể mang nội dung như tựa đề trên.
Trước hết,
xin có đôi lời với Giáo sư:
Thứ nhất, tôi
hoàn toàn nhất trí với Giáo sư là: “đã đến lúc tất cả phải được đặt trên bàn
nghị sự”. Nhưng phải hỏi ngay giáo sư (và một số người khác) rằng, ai được quyền đặt “tất cả lên
bàn nghị sự?” Tôi cho rằng tất cả những ai quan tâm đều có quyền đó, cho
dù ý kiến của họ có khác nhau đến đâu, chứ không phải chỉ có những người có “đặc
quyền” hay “độc quyền” mới có quyền đó. Tôi chắc Giáo sư khó phản đối quan điểm
này của tôi. Cứ cho là như vậy đi, thì những câu tiếp theo của Giáo sư như ‘… đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trước đây, hiện nay và cả trong tương lai không
gì thay thế được. Bởi ở nước
ta không có đất cho một đường lối chính trị nào tốt hơn khả dĩ được nhân dân
chấp nhận ngoài đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khách quan lịch
sử mà nói, một đường lối khác, chẳng hạn đường lối xã hội dân chủ ai đó đang
mơ tưởng, dù có tô vẽ nguỵ trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc vẫn không thể
khác gì là một đường lối đưa dân tộc
ta đi con đường tư bản hoang dã tồi tệ
nhất, cuối cùng không tránh khỏi trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc
vào các thế lực đế quốc phản động, thực dân mới kiểu mới.”, cũng như tất cả
các ý kiến khác nêu trong bài báo đó, phải đọc xem là ý kiến của một cá nhân cụ
thể - của Giáo sư Nguyễn Đức Bình.
Tôi
tôn trọng ý kiến của Giáo sư và tôi hy vọng ý kiến của tất cả những người khác,
trong đó có của tôi, cũng được tôn trọng và được tạo cơ hội bình đẳng trong thảo
luận. Nhưng tôi cũng phải bác bỏ một cách dứt khoát những khẳng định không hề có
tính khoa học của Giáo sư.
Chẳng có cái
gì gọi là vĩnh hằng, là mãi mãi đúng đến
nỗi “hiện nay và cả trong tương lai không có gì
thay thế được”. Chỉ có cái chết mới hoạ may như thế! Cách nói như vậy có
vẻ không Marxist cho lắm! Câu tiếp theo của Giáo sư mới chủ quan làm sao. Đấy là
ý của Giáo sư hay Giáo sư đã hỏi nhân dân Việt Nam? Và hỏi, thì hỏi khi nào, bằng
cách nào? Cách nói của Giáo sư về đường lối xã hội dân chủ chẳng khác gì đưa dân
tộc ta vào “ con đường tư bản hoang dã
tồi tệ nhất,.. không tránh khỏi trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế
lực đế quốc phản động, thực dân…” chứng tỏ Giáo sư không chịu cập nhật thông
tin mà chỉ đọc những sách mà có lẽ được Giáo sư cho là Kinh thánh. Thế giới đã
thay đổi kinh khủng từ khi Marx viết Tư bản luận. Và Marx với tư cách một nhà phân tích xã hội
của thời kỳ tư bản hoang dã đó đã có công lao to lớn với giai cấp tư sản, với “bọn tư
bản” để buộc nó phải thay đổi, phải ứng phó. Hãy nhìn khắp thế giới đã phát triển
để xem “bọn tư bản hoang dã “ đã làm được những gì trong việc phát triển kinh tế,
xã hội, văn hoá, khoa học, bảo vệ con người, và tự nhiên? Thế giới đó không còn
là hoang dã và man rợ nữa, họ đã qua giai đoạn đó hàng trăm năm rồi. Thật trớ
trêu là Marx, nhà phê phán lỗi lạc của chủ nghĩa tư bản lại là một trong những
người có công to lớn đối với chủ nghĩa tư bản, vì ông đã vạch trần những bất công và mâu thuẫn của
xã hội lúc đó. Và “ bọn tư bản đáng nguyền rủa” lại chịu khó đọc ông, thấy cái
hay và cái dở của ông và thích ứng để phát triển. Cũng trớ trêu không kém là Marx
thực sự đã làm hại các môn đồ của mình khôn xiết. Những người đã tôn ông lên làm
giáo chủ, nhất nhất coi ông và các tông đồ là những người luôn luôn đúng, đã tự
giam hãm mình về mặt tư duy, đã không tạo điều kiện cho sáng tạo đã đưa hàng trăm
triệu người đến chỗ phải chịu biết bao thống khổ, nghèo nàn, đã đưa đất nước vào
sự tụt hậu triền miên.
Tôi
e là những người lúc nào cũng huênh hoang trung thành, kiên định với chủ nghĩa
này, chủ nghĩa nọ, lại chính là những người đưa dân tộc vào con đường hoang dã
“tiền tư bản chủ nghĩa”” nhưng mang cái danh rất hấp dẫn, rất quyến rũ lòng người.
Chúng ta chỉ có thể tiến dần đến chân lý, qua tư duy, qua thảo
luận, qua tranh luận mang tính phê phán, qua hành động và quan trọng nhất
– qua kiểm nghiệm của thực tiễn. Ngay cả khi đó, cái mà đại đa số có được sự thống
nhất chưa chắc đã là chân lý. Vậy nên không ai, không tổ chức nào, dẫu công trạng
quá khứ của họ có được cho là to lớn đến đâu, có thể coi mình có độc quyền chân
lý. Tính có thể sai là tính
vốn có của con người. Cái hay là con người có thể sai ấy lại biết học
qua quá trình “ thử và sai”. Tôi là người có thể sai, và Giáo sư Bình, các lãnh
tụ lỗi lạc từ cổ chí kim cũng đều là những con người có thể sai, và nhiều khi họ
đã mắc những sai lầm nghiêm trọng, tác hại của những sai lầm đó càng lớn khi địa
vị của họ càng cao.
Tôi cũng đồng
cảm với Giáo sư Bình khi ông viết về Đảng của mình:” thiếu nhất trí thực chất là ở chỗ nào, quan
điểm khác nhau ra sao, căn nguyên của sự thiếu nhất trí ở đâu, thì chưa bao giờ
được đặt ra phân tích mổ xẻ đến nơi. Nay đề nghị Bộ Chính trị, Ban chấp hành
Trung ương và Đại hội X nhìn thẳng vào sự thật này vì đã đến lúc không thể nào
tránh né”. Tôi cũng thống nhất cần thảo luận ra môn ra khoai ba vấn đề
lý luận then chốt mà Giáo sư Bình nêu ra:
“ Sau thảm hoạ sụp đổ
ở Liên Xô, Đông Âu, chúng ta có nên tiếp tục
con đường chủ nghĩa xã hội, thôi nói chủ nghĩa Marx – lenine, mà cứ làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là được rồi?
- Bản chất Đảng có gì thay đổi? Có nên giữ như lâu
nay: “ Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của cả dân tộc” hay
nên thay bằng công thức mới: “ Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, của dân tộc”.
-
Về Đảng viên có nên cho phép Đảng viên làm kinh tế tư bản
tư nhân, cho phép kết nạp cả những nhà tư bản tư nhân vào Đảng hay không?”
Giáo sư Bình phàn nàn “ các vấn đề rất ít
được đặt ra để thảo luận và tranh luận” và kiến nghị “Trung ương cho ra một tờ nội san, lưu hành
có hạn chế trong Đảng, có thể đặt tên là “Tranh
luận” để đăng tải những bài có quan điểm khác nhau mà không thể đăng công
khai. Để đảm bảo chặt chẽ, có thể quy định trong tôn chỉ mục đích của nội san
là tất cả bài vở đều không được chống lại chủ nghĩa Marx – lénine, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Cương lĩnh chính trị và đường lối cơ bản của Đảng, mặc dù có thể cho
phép có những phê phán riêng rẽ về những
luận điểm cụ thể này hay khác, chủ trương cụ thể này hay khác, không phải là
đường lối và nguyên lý cơ bản.”
Tôi không muốn xen vào việc nội bộ của Đảng,
song vì các quyết định của Đảng cộng sản hiện nay đụng chạm đến hiện tại, tương
lai của cả hơn 80 triệu người, tôi đề nghị có công khai cho mọi người bàn về những
chuyện hệ trọng của đất nước, trong đó có thể có chuyện của Đảng Cộng sản nếu họ
muốn. Đản Cộng sản có nghe hay không là chuyện của Đảng, tôi nghĩ thảo luận rộng
rãi công khai là có lợi cho đất nước, và cũng có lợi cho Đảng Cộng sản. Tại sao
lại không thể đăng công khai. Làm gì chuyện mờ ám mà phải sợ công khai? Tôi nghĩ
tranh luận phải thẳng thắn, trên tinh thần xây dựng và khoan dung, dựa vào lý lẽ
và thực tiễn, không được dùng diễn đàn để lăng mạ nhau, không được xúi giục chiến
tranh, chia rẽ dân tộc, kích động hận thù, kích động bạo lực, v.v…; nhưng còn “
không được chống” cái này, cái nọ, theo như Giáo sư nói, nghĩa là thế nào?
Trong tranh luận, sự phê phán có thể rất kịch
liệt, vậy có thể là chống không? Không thể. Cách tổ chức tranh luận mà chưa chi đã răn đe, chặn
trước những ý kiến phê phán thì phỏng tranh luận có ích chi? Đó là tranh luận
không công bằng.
Bây giờ xin có vài lời về các câu trả lời
của Giáo sư cho các vấn đề mà chính Giáo sư đặt ra.
“ Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn” là câu trả lời của
Giáo sư cho câu hỏi then chốt thứ nhất. Vấn đề là ở chỗ “ con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn” là con đường nào? Nếu ‘ con đường
đã lựa chọn” ấy là xoá bỏ sở hữu tư nhân, là thiết lập sự duy trì độc quyền của
một số nhỏ, là kế hoạch hoá tập trung, là “ trí, phú,
điạ hào đào tận gốc, trốc tận rễ”,v.v…, thì nhân dân thế giới, dân tộc
Việt Nam đã có câu trả lời dứt khoát: không cần. Và theo tôi hiểu Đảng Cộng sản
Việt Nam
cũng đã vất bỏ “ con đường đã chọn” đó. Giáo sư hỏi tiếp: “Đảng ta, đất nước ta
có đi con đường xã hội chủ nghĩa nữa hay không? Không vòng vo, lấp lửng, tránh
né, mà phải trả lời dứt khoát, rõ ràng”. Tối rất mừng và hoán toàn đồng ý rằng
từng người phải cố tìm ra câu trả lời của mình. Song tôi lại xin hỏi Giáo sư “ con đường xã hội chủ nghĩa”
không có bổ ngữ “ đã chọn” là con đường nào? Chắc Giáo sư cũng đồng ý với
tôi rằng con đường xã hội chủ nghĩa theo kiểu đã từng được tất cả các nước “ xã
hội chủ nghĩa” trước các năm 1990 của thế kỷ trước “lựa chọn” đã hoàn toàn thất
bại. Thế mới có, theo lời Giáo sư, “thảm hoạ sụp đổ” ở Liên Xô và Đông Âu, thế
mới có đổi mới ở Trung Quốc và Việt Nam. Giả như nếu có hỏi ý kiến về cụm
từ “ thảm hoạ sụp đổ” của Giáo sư thì tôi chắc không dưới 85% người dân ở các nước
ấy sẽ đơn giản bỏ từ “ thảm hoạ” và thêm chữ “sự” để thành “sự sụp đổ” mà thôi.
Nhưng mỗi người đều có quyền tự do ý kiến. Tôi không đồng ý với cách dùng từ và
chính kiến của Giáo sư nhưng vẫn tôn trọng ý kiến của Giáo sư.
Theo tôi tên gọi thực ra không quan trọng,
nội dung mới là quan trọng. Nếu hiểu nội dung của “ xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam là làm sao cho “ dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, là làm sao có hoà bình, ổn
định để mọi người có thể phát huy hết tài năng của mình, để mọi người có thể sống
bình yên, khoan dung với nhau, để Việt Nam khỏi tụt hậu hoài hoài, để chống
tham nhũng. Nếu Đảng Cộng sản nói thật rõ như vậy, làm mọi việc để hướng tới thực
hiện mục tiêu ấy, chứng minh bằng việc làm là lời nói nhất quán với việc làm, và
để nhân dân thực sự tin là như thế, và bất cứ kẻ nào làm bất cứ gì tổn hại đến
các mục tiêu cao quý như vậy thì không xứng đáng là Đảng viên nữa, và tất nhiên
kẻ đó bị khai trừ ra khỏi Đảng. Nếu đúng như thế thì tôi tin Đảng Cộng sản Việt
Nam, hay dẫu có gọi bằng bất cứ tên gì khác, sẽ có số Đảng viên nhiều gấp bội bây
giờ. Và nhân dân Việt Nam sẽ
có một lòng theo đảng, trừ phi có Đảng khác cũng phấn đấu cho các mục tiêu ấy và
làm tốt hơn Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chắc Đảng Cộng sản Việt Nam
sẽ không, và cũng khó có thể cấm dân không theo cái Đảng kia nếu họ làm tốt hơn
mình.
Đơn giản vậy nên đừng chụp mũ “ chơi trò
ngụy biện, đánh tráo khái niệm”. Những người đánh tráo khái niệm thường hay lên
án người khác đánh tráo khái niệm. Hãy nói thật rõ mục tiêu của anh là gì, làm
cách nào để đạt được mục tiêu đó, hành động thật sự vì các mục tiêu đó, chứ không
chỉ nói, và người dân sẽ phán xét. Tôi tin nếu làm thật rõ như thế, thì có thể
Giáo sư phải lập một Đảng Cộng sản khác, có thể gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam Marxist-
léninist, có các chủ trương như Giáo sư nêu trong phần “ kiên định con đường xã
hội chủ nghĩa” của Giáo sư và cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành.
Và tôi tin Đảng của Giáo sư sẽ có ít đảng viên, ít được dân chúng ủng hộ hơn
nhiều.
Tôi thông cảm với áy náy của Giáo sư khi
phê phán Đảng mình “ nói định hướng xã
hội chủ nghĩa trong thực tế phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước thì lời nói của anh là giả dối, là vô giá trị, là nói một đằng làm một
nẻo, không ít người hay dùng thủ thuật này. Anh nói Nhà nước chủ đạo chứ không
phải là kinh tế Nhà nước chủ đạo. Nói thế thật ra là nói để mà nói, bởi không
có thực lực kinh tế làm chỗ dựa thì Nhà nước lấy gì để chủ đạo theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Hay cứ buông tất cả nền kinh tế cho bàn tay vô hình'' của lực
lượng thị trường, thì ta khác gì tư bản, khác gì chủ nghĩa tự do mới?'' Nhưng
xin thưa với giáo sư nếu
không '' nói một đằng làm một nẻo'' như vậy thì các mục tiêu cao cả mà đại
đa số nhân dân chấp nhận và Đảng Cộng sản Việt Nam cũng theo đuổi làm sao thực hiện
được? Nếu cứ để cho những người đồng ý với Giáo sư đổ thêm nhiều tiền của nhân
dân và tiền vay nước ngoài, mà con cháu chúng ta sẽ phải è lưng ra trả nợ, vào
các đề án rất công phu '' dâu tơ tằm'', '' xi măng lò đứng'', có bao nhiêu doanh
nghiệp nhà nước có năng suất lao động thấp, tạo được ít công ăn việc làm, tiền
nộp cho nhà nước không bằng tiền nhà nước trợ cấp, v.v.., để cho không biết bao
nhiêu cán bộ như ông Bùi Tiến Dũng móc ra đánh bạc, để cho các quan chức cấp
cao của Bộ này, Uỷ ban nọ ăn đút lót, để cho nạn tham nhũng tràn lan mà báo chí
và Đảng Cộng sản Việt Nam cũng cho là quốc nạn.
Tôi có thể chứng minh, nếu cần, cho Giáo sư
rằng nhìn chung phần lớn doanh nghiệp nhà nước đã bị '' tư nhân hoá'' ngấm ngầm
mất rồi, không còn là sở hữu toàn dân như Giáo sư vẫn tưởng đâu. Các ông chủ thực
sự của các doanh nghiệp đó về mặt pháp lý không phải là cổ đông, nhưng họ là các
ông chủ defacto đấy Giáo sư ạ. Nhà nước
nên làm một đề tài về vấn đề này, và tôi đánh cược họ không chứng minh được
nhận xét của tôi là sai đâu - nếu các chuyên gia độc lập cũng được tham gia.
Tôi cũng phải nói thật với Giáo sư rằng tư
nhân hoá là khai niệm rộng hơn cổ phần hoá. Nói cách khác, cổ phần hoá là một dạng
của tư nhân hoá, và chưa chắc đã là dạng hay nhất. Cách cổ phần hoá ở Việt Nam hiện
nay phần lớn không mang lại kết quả mong muốn. Nó chỉ tạo cơ hội cho bọn đục
khoét dần tiền Nhà nước.ai nghĩ rằng cổ phần hoá tạo ra sỡ hữu tập thể, một thành
phần được ưu ái bởi vì kinh điển liệt nó vào khu vực '' xã hội chủ nghĩa'' thì
người đó chỉ tự hảo mình hay cố an ủi mình vì cứ nghĩ nó phù hợp với '' hệ tư tưởng''.
bán nhà công, hoá giá nhà công cho các vị, xin thưa cũng
là'' tư nhân hoá'' đấy ạ. người ta hoá giá biệt thự với giá rẻ mạt, và những
người được mua có thể sang tên đổi chủ, rồi cho thuê, hay bán một phần với giá
gấp nhiều lần giá mua.
Tôi cũng chẳng nên nói thêm về '' định hướng''
này định hướng nọ nữa, đã
chưa rõ hướng mà cứ sợ người này người kia '' chệch hướng'' là sợ cái gì?
Định hướng XHCN cứ theo kiểu của Giáo sư muốn làm gì thì tôi e chúng ta lại phải
lại xếp hàng cả ngày mất, chắc những ai đã phải xếp hàng cả ngày khó có thể đồng
ý với Giáo sư về kinh tế nhà nước về định hướng XHCN về con đường đã lựa chọn.
Tôi nghĩ vấn đề lý luận là rất quan trọng, song nó chỉ có thể phát triển trong
môi trường cạnh tranh về tư duy, hay thực sự tự do tư tưởng, trong môi trường mà
người dân có thể mở mồm ra được như cụ Hồ đã nói. Không
có tự do tranh luận, thì các hội đồng lý luận trở thành '' hội đồng lú lẫn''
như người dân vẫn nói. Những người làm lý luận nên nghiêm túc nghe những câu''
tào phào'' đầy thâm thuý của dân. Có sự tranh luận như vậy là một dấu hiệu rất
tốt.
II. Tôi không muốn lạm bàn nhiều về câu trả
lời cho câu hỏi thứ hai của Giáo sư về '' giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng''. Tôi thông cảm với day dứt của Giáo sư.
Tôi nghĩ phải quay lại những khái niệm cơ bản, xem trước kia người ta dùng chúng
để chỉ cái gì, bây giờ còn dùng được không. Tôi e nhiều người mất quá nhiều thời
gian bàn những chuyện '' nhân tạo'' không sát với thực tiễn. Mô hình, học thuyết,
lý thuyết hay những cái tương tự là sản phẩm nhân tạo, do tư duy của con người
tạo ra với hy vọng chúng có thể mô tả tốt thực tiễn. Các mô hình, học thuyết như
vậy là rất quan trọng, song
đừng thần thánh hoá mô hình nào cả, nó do một hay một số người có thể
sai tạo ra. Không có mô hình đúng và mô hình sai, chỉ có mô hình dùng với thực
tế hơn mô hình khác. Mô hình không sát với thực tế hay bị thực tế bát bỏ, thì
phải vất nó đi và tìm mô hình mới. đấy là quá trình hoàn thiện và sáng tạo. Các
khẳng định của Giáo sư về giai cấp tiên phong nhất, triệt để nhất, cách mạng nhất
là Giáo sư tự nhận thế, thôi hãy để thời gian và lịch sử đánh giá. Giáo sư nói
về'' nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô'' là '' sự ra đời, từ bỏ lập
trường quan điểm marxist về giai cấp trong đường lối cải tổ, là sự thay thế vào
đó bằng cái gọi là tư duy chính trị mới', thực chất là hệ tư tưởng tư sản, là đường lối
thoả hiệp, đầu hàng chủ nghĩa đế quốc, giúp chúng không đánh mà thắng''.
Tôi e nếu chúng ta tiếp tục nghĩ như Giáo sư thì sự sụp đổ đó sẽ diễn ra ở đây
nữa, mang lại một sự chuyển đổi đầy đau đớn và bất hạnh như các nước thuộc Liên
Xô trước đây, nơi không có ổn định chính
trị, nơi'' bọn đầu sỏ'' tước đoạt tài sản quốc gia, nơi mafia hoành hành. Mà chúng
ta thì cần một sự chuyển đổi tốt đẹp, ổn định, văn minh hơn, một sự chuyển đổi
hoà bình, phi bạo lực, suôn sẻ sang nền dân chủ.
III. Trả lời câu hỏi thứ ba của mình, Giáo
sư thật trăn trở và đi đến kết luận '' không, ''
dứt khoát. Tôi rất đồng cảm với những trăn trở và day dứt của Giáo sư. Quả thực
để cho '' bọn tư nhân'', một thời dứt khoát phải bị triệt tiêu, vào Đảng Cộng sản,
thì quả là khó dung hoà với ý thức hệ. Những trăn trở, day dứt, giằng xé đó là
chân thật, là chân thành. Tôi tin không chỉ có Giáo sư mà còn nhiều đảng viên
khác cũng nghĩ thế. Giáo sư viết: '' Để
mở đường đưa tư bản tư nhân vào Đảng, hay để cho phép đảng viên làm kinh tế tư
bản tư nhân, một con đường ngoắt ngoéo đã đi qua... '' Đảng viên làm kinh tế tư
nhân không giới hạn về quy mô''. Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là có thể làm
giàu hết cỡ, có thể bóc lột hết cỡ mà ( với những điều kiện nhất định?) có thể
được làm đảng viên, như vậy có trái sờ sờ với '' lẽ tự nhiên'' như Bác Hồ nói
không? Nhưng tại so một chính sách mới của Đảng quan trọng như thế mà lại không
nói thẳng thắn, đàng hoàng, minh bạch, thậm chí không gọi sự vật đúng tên của
nó?... Trước sau tôi vẫn không đồng ý quan điểm trong Đảng có thể có tư bản tư
nhân với những lý lẽ như sau:
Nói
về tiêu chuẩn đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: '' Đảng phải thật
trong sạch, mạnh mẽ. Vì vậy đảng viên cũng phải thật trong sạch, mạnh mẽ tức là
phải đúng những tiêu chuẩn sau đây:
-
Không bót lột
nhiều người. Đảng chống chế độ'' người bóc lột người''. Lẽ tự nhiên, ai bóc lột
người thì không thể làm đảng viên.
-
.....
-
.....
( Hồ
Chí Minh. Toàn tập, tập 7, tr.237)
Đó là tư tưởng Hồ Chí
Minh, cũng là chủ nghĩa Mác - lênin và như thế là rõ. Đảng Cộng sản mà lại cho
phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân, kết nạp vào hàng ngũ của mình cả chủ
tư bản thì thật trái với '' lẽ tự nhiên''. Đã là '' lẽ tự nhiên'' nên đáng ra
không phải bàn luận, tranh luận nhiều''.
'' Một người đảng viên,
nhất là trong cách mạng XHCN vì vậy không thể vừa là chiến sĩ cộng sản lấy việc
xoá bỏ chế độ bóc lột làm lý tưởng đời mình, lại vừa làm ông chủ tư bản lấy bóc
lột lợi nhuận làm lẽ sống. Mọi đảng viên cũng là công dân nhưng không phải mọi
điều công dân được làm thì đảng viên cũng được làm bởi vậy đối với đảng viên,
ngoài pháp luật còn phải tuân theo Điều lệ Đảng; nếu cho như vậy là đảng viên
không bằng công dân, là mất quyền tự do công dân, thì nào có ai bắt buộc anh
vào Đảng!''
''... trong điều kiện
hoà bình xây dựng thông qua kinh tế thị trường, khó mà hình dung được một nhà
tư sản đang đường đường là một ông chủ lấy lợi nhuận( và lợi nhuận tối đa) làm
mục tiêu, ngày đêm phải vắt óc suy nghĩ và xoay xở đủ cách( chính đáng và không
chính đáng, hợp pháp và phi pháp) để đạt kỳ được mục tiêu đó( nếu không thì ông
ta không là nhà tư bản), làm sao một người như thế đồng thời đêm ngày lo nghĩ
được sự nghiệp XHCN của Đảng, làm tròn nhiệm vụ một đảng viên, toàn tâm ý phục
vụ nhân dân? Động cơ vào Đảng của họ làm sao có thể trong sáng được, làm sao họ
có thể tự nguyện rời bỏ giai cấp mình để hy sinh tất cả cho lý tưởng Cộng sản,
một chế độ không có người bóc lột người. Trái lại, họ vào Đảng cốt tìm kiếm chỗ dựa quyền lực để
dễ bề làm ăn, kinh doanh. Ta biết rằng thời nay quyền lực và tiền bạc, tiền bạc
và quyền lực thường dễ móc nối với nhau ranh ma quỷ quái thế nào. Và thật vô
cùng nghịch lý khi nghĩ rằng kết nạp cả tư sản để mở rộng cơ sở xã hội, cơ sở
quần chúng cho cách mạng XHCN!''
Vâng, rất bức xúc, rất trăn trở và day dứt.
Và tôi trân trọng sự trăn trở đó của Giáo sư. Chỉ xin mạo muội góp vài ý như
sau.
Lý lẽ cốt lõi của Giáo sư là '' lẽ tự nhiên'' của cụ Hồ mà giáo
sư trích ở trên. Đó là:
'' Không bóc lột người. Đảng chống chế độ '' người bóc lột người''.
Lẽ tự nhiên, ai bóc lột người thì không làm đảng viên''
Theo Giáo sư người làm kinh tế tư bản tư
nhân( tức là có thuê lao động, phân biệt với người làm kinh tế tư nhân cá thể,
không thuê lao động) dứt khoát là người bóc lột, là người lấy bóc lột lợi nhuận
làm lẽ sống. Họ là những người chăm chăm '' làm giàu hết cỡ, làm tư bản tư nhân
hết cỡ, có thể bóc lột hết cỡ''. Vậy cái ác cảm với nhà tư bản tư nhân là ở chỗ
anh ta bóc lột. Anh ta làm
giàu hết cỡ chẳng có gì đáng trách, vì chúng ta đang muốn dân giàu, Đảng
Cộng sản hoan nghênh cơ mà, chắc tôi không hiểu sai Giáo sư. Việc làm tư bản tư
nhân hết cỡ cũng chẳng phải là lý do. Vậy anh ta bóc lột cái gì? Ai bóc lột ai?
Bóc lột là gì? Phải tìm ra được câu trả lời cho câu hỏi này thì mới làm rõ ác cảm
đó là thế nào.
a) Vậy
bóc lột là gì? Nó dẫn tới đâu? Để trả lời câu hỏi này cần nhiều trăm trang viết
cũng chua thấu đáo, và tôi e cũng không đạt kết quả thống nhất. Chỉ cần lên internet,
vào google và gõ từ''exploitation'' ( sự bóc lột) trong vòng 0.1 giây cho chúng
ta hàng chục triệu mục liên quan đến sự bóc lột, trong đó có hàng chục ngàn định
nghĩa khác nhau về bóc lột. Vào Wikiedia ta thấy chi tiết định nghĩa Marxist, định
nghĩa tân cổ điển, định nghĩa tân tự do về bóc lột. Trong mục bóc lột của Bách
khoa thư đại học Stanford có liệt kê 16 định nghĩa khác nhau của các học giả về
bóc lột, trong đó có 2 định nghĩa theo cách tiếp cận Marxist. Bóc lột gắn với
giao dịch giữa hai tác nhân A và B. Các định nghĩa trên đều có nét chung là: A (
kẻ bóc lột) bóc lột B( người bị bóc lột) khi A lợi dụng B một cách không công bằng.
Các nhà Marxist nói về bóc lột đại thể như
sau: nhà tư bản(A) bóc lột người làm thuê (B) bằng cách chi trả B đồng lương( tương
ứng với thời gian lao động cần thiết) bằng giá trị tái tạo ra sức lao động của
B trong khi B phải lao động dài hơn thời gian đó. Giá trị tương ứng với hiệu quả
của tổng thời gian lao động và thời gian lao động cần để tái tạo sức lao động được
marx gọi là giá trị thặng dư, và đó là nguồn duy nhất của lợi nhuận của nhà tư
bản. Tôi không đi chi tiết, chỉ muốn gợi ý rằng vấn đề cho đến nay cũng chưa ngã ngũ về bóc lột là gì.
Vậy nên cái '' lẽ tự nhiên'' cũng còn phải bàn cãi chán. Lý thuyết về bóc lột về
giá trị thặng dư của Marx được nhiều ngời ca ngợi và cũng bị nhiều người hơn phê
phán và bác bỏ( tiếc là chúng ta chỉ được đọc những lời ca ngợi).
Theo thiển ý
của tôi quy lợi nhuận của nhà tư bản chỉ dựa vào lao động thặng dư của công nhân(
người làm thuê) là một mô hình quá sơ sài không phản ánh sát thực tiễn. Và quan
trọng hơn nó chỉ sát với thực tiễn trong chủ nghĩa tư bản vô độ( hay dã man),
nhà nước đã can thiệp, phong trào công nhân đã nổi lên, công nghệ càng phát triển,
v.v.. Thời chủ nghĩa tư bản man rợ, vô độ, không bị
kiềm chế đã qua cả hơn trăm năm rồi. Nhà nước đã đưa ra bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm xã hội, các công đoàn đòi tăng lương, các chủ tư bản cũng hiểu hơn về
vài trò của nguồn nhân lực và có chính sách phù hợp( như thưởng chia sẻ lợi
nhuận, quyền mua cổ phần, đào tạo, tái tạo, v.v..) để giữ và nâng cao nguồn
nhân lực. Thời xưa, Marx tin rằng nạn thất nghiệp về cơ bản là một dụng
cụ của cơ chế tư bản chủ nghĩa với chức năng giới đồng lương thấp, và để làm
cho việc bóc lột công nhân làm thuê dễ dàng hơn, sự nghèo khổ tăng lên luôn là
sự nghèo khổ tăng lên của các công nhân làm thuê. Và từ đó Marx tiên tri rằng các
nhà tư bản giàu lên mãi mãi, giai cấp công nhân bị bần cùng mãi mãi đến mức không
thể chịu nổi phải đứng lên làm cách mạng vô sản lật đổ chế độ tư bản. Nhưng cho
dù chúng ta giả sử rằng quan điểm này được biện minh ở thời của ông với tư cách
một lời tiên tri, nó rõ ràng bị thực tiễn sau đó bác bỏ. Mức sống của các công
nhân làm thuê đã tăng lên ở khắp nơi kể từ thời Marx; và lương thực tế của các
công nhân làm thuê thậm chí có xu hướng tăng lên trong suy thoái (như trong đại
suy thoái 1927-1928) do một sự giảm sút nhanh hơn về giá so với về lương. Những tiến triển gần đây ở các
nước phát triển cho thấy số những người làm thuê bước vào tầng lớp trung lưu ngày
càng đông, họ được bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở mức
chưa từng có. Hãy thử nhìn mức thu nhập tối thiểu, mức trợ cấp của họ. Chúng ta
còn xa mới làm được như vậy. Nói cách khác mức thu nhập sàn đã tăng lên nhanh và
tăng lên đáng kể, không có trần thu nhập; chứ không như Marx tiên tri. Đây là một sự bác
bỏ Marx rành rành, đặc biệt vì nó chứng minh rằng gánh nặng chủ yếu
của bảo hiểm thất nghiệp không phải do các chủ doanh nghiệp, những người vì thế
đã mất mát một cách trực tiếp qua thất nghiệp, thay cho kiếm được lời một cách
gián tiếp, như trong sơ đồ của Marx.
b) Người
làm kinh tế tư nhân tạo công ăn việc làm cho những người khác. Mỗi năm ở Việt Nam cần tạo ra
khoảng 1.5 triệu việc làm mới. Tuyệt đại đa số việc làm mới do khu vực tư nhân
tạo ra. Nếu không có khu vực tư nhân thì chẳng hiểu tai hoạ thất nghiệp sẽ đến
mức nào?
c) Người
làm kinh tế tư nhân là lao động nặng nhọc. Quan điểm cũ kỹ coi người làm tư nhân
là kẻ bóc lột. Tôi thấy họ là những người lao động cật lực( có thể không phải
lao động chân tay). Họ lao tâm khổ tứ, họ chịu rủi ro, họ có thể mất hết cơ
nghiệp nếu phá sản. Và chuyện phá sản là chuyện xảy ra bình thường ở mọi nơi.
Ai cũng công nhận vốn(tư bản) phải tạo ra lãi. Người dân gửi tiền tiết kiệm làm
gì nếu không vì đồng lãi. Người dân gửi tiết kiệm làm gì nếu không vì đồng lãi,
không vì chuyện sinh lời. Như thế vốn phải sinh lời. Có vốn bằng tiền( ta thường
chỉ hiểu thế), ngày nay người ta nói đến vốn xã hội, vốn tiên tri chỉ có lao động.
lao động hết sức nặng nhọc của người chủ doanh nghiệp thì sao? Hãy xem Bill gates,
Michael Dell hay thậm chí Soros có người bóc lột hay không? Họ là những người làm
nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng với cái đầu siêu việt của họ. Họ lao động cật lực và kiếm được
rất nhiều tiền. Họ tạo ra công ăn việc làm cho hàng chục triệu người, trực
tiếp và gián tiếp họ dùng phần lớn thu nhập của mình làm từ thiện để giải quyết
những vấn đề đau đầu của nhân loại như bệnh sốt rét, bênh hiv, xoá đói giảm nghèo.
Thử hỏi cụ Hồ sẽ gặp khó khăn ra sao nếu cụ Trịnh Văn Bô, với tư cách nhà doanh
nghiệp tư nhân, không đóng góp hàng ngàn cây vàng cho chính phủ lúc khó khăn năm
1945? Tất cả họ có là bóc lột đáng nguyền rủa không? Đành rằng cũng có một số ít
kẻ làm kinh tế tư nhân tiêu xài hoang phí, chỉ dựa vào vốn liếng do cha ông làm
ra mà không chăm chú phát triển kinh doanh. Chúng chẳng thể sống lâu, với các
loại thuế tài sản, thuế thu nhập, thuế kế thừa mà tất cả các nước đã đưa ra, chúng
chỉ nướng gia sản của cha ông mà thôi. Số đó là số ít. ở nước ta số những kẻ chẳng
được hưởng gia tài của cha ông, cũng chẳng phải làm kinh tế tư bản tư nhân, mà
tiêu xài vô độ như các con cháu các quan, và một số người có chức có quyền mới
thật là đáng kinh ngạc. Các nước người ta đánh thuế mọi loại thu nhập, người ta
đánh thuế tài sản, đánh thuế thừa kế để làm sao đảm bảo cho mức thu nhập tối
thiểu ngày càng tăng lên mà không phản khuyến khích người làm giàu. Những người
thừa kế nếu không biết vun đắp cho công lao của cha ông không mấy chốc có thể nướng
hết tài sản tích tụ được. Nói thế để thấy nhận xét của Giáo sư rằng, ''... trong điều kiện hoà bình xây dựng thông qua
kinh tế thị trường, khó mà hình dung được một nhà tư sản đang đường đường là
một ông chủ lấy lợi nhuận( và lợi nhuận tối đa) làm mục tiêu, ngày đêm phải vắt
óc suy nghĩ và xoay xở đủ cách( chính đáng và không chính đáng, hợp pháp và
không hợp pháp) để đạt kỳ được mục tiêu đó( nếu không thì ông ta không là nhà
tư bản), là sơ lược và hẹp hòi đến thế nào.
d)
Hiện nay ai bóc lột ai? Đây là câu hỏi lý thú mà
các nhà nghiên cứu nên làm rõ. Tôi tin chắc người lao động trong khu vực tư nhân
không bị'' bóc lột '' bằng ở khu vực nhà nước, nếu hiểu bóc lột theo nghĩa có ai
đó tước đoạt thành quả của mình. Bọn tham nhũng - và họ toàn là những kẻ có chức có quyền - đang
bóc lột thậm tệ toàn dân ta.
e) Vấn
đề là hai chiều chứ không phải có từ phía đảng'' hạ thấp tiêu chuẩn'' để cho những
người làm kinh tế tư nhân có thể vào Đảng,
không phải chỉ như Giáo sư nhận xét về họ rằng: '' Trái lại, họ vào Đảng cốt tìm
kiếm chỗ dựa quyền lực để dễ bề làm ăn, kinh doanh. Ta biết rằng thời nay quyền
lực và tiền bạc, tiền bạc và quyền lực thường dễ móc nối với nhau ranh ma quỷ
quái thế nào. Và thật vô cùng nghịch lý khi nghĩ rằng kết nạp cả tư sản để mở rộng
cơ sở xã hội, cơ sở quần chúng cho cách mạng XHCN!''. Tôi nghĩ luôn có những kẻ
cơ hội như vậy, nhưng đa số không thế. Tôi tin tỉ lệ bọn cơ hội là người làm
kinh tế tư nhân nhỏ hơn nhiều so với trung bình hiện nay trong Đảng. bọn mua
quan bán chức, bọn chạy chọt ghế, trong số chúng có tên nào làm kinh tế tư nhân
không? Tôi cam đoan không có. Thế mà số bọn chúng thì nhiều như '' quân Nguyên''.
Giáo sư nghĩa sao? Và còn ở phái bên kia nữa, những người làm kinh tế tư nhân,
chắc đâu họ đã muốn vào Đảng!
Tôi xin Giáo sư làm rõ những việc trên.
Tóm lại, việc Đảng Cộng sản Việt Nam để
cho đảng viên được làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô là một sự thay đổi
to lớn trong tư duy của Đảng, nó ghi nhận một thực tiễn đã và đang diễn ra từ
hai mới năm qua ở nước ta; việc Đảng có kết nạp những người làm kinh tế tư nhân
vào đảng hay không là chuyện của cả hai phía, chứ không chỉ ở một bên. đảng muốn
dân làm giàu mà lại cứ buộc đảng viên phải chịu mãi phạn của '' kẻ bị bóc lột'',
của người vô sản, không được làm giàu thì có mâu thuẫn với mục tiêu không? Có
rất nhiều vấn đề cần bàn cãi công khai để chúng ta hiểu tình hình hơn, hiểu
nhau hơn, để cho đất nước phát triển. Trăn trở của Giáo sư, câu trả lời dứt khoát
'' không'' của Giáo sư phải được tôn trọng. Hi vọng những ý kiến khác cũng được
tôn trọng.
IV.
Tôi không dám luận bàn về sự độc lập tự chủ và sáng tạo trong lý luận mà Giáo sư
nêu ra. Chỉ xin nêu vài ý kiến để cùng nhau trao đổi. Sự độc lập, tự chủ và sự
phụ thuộc, tuỳ thuộc lẫn nhau là những các mặt đối lập. Minh triết phương Đông
và phương Tây kể cả lý luận Marxist, đều coi trọng sự thống nhất của những cái đối
lập và coi trọng cả sự khác biệt mâu thuẫn của chúng. Không có cái đối lập của
một sự vật hay hiện tượng thì bản thân cái sự vật và hiện tượng đó cũng chẳng
thể tồn tại. Trong chính trị cũng thế, không có lực lượng đối lập thì chỉ có thể
độc tài, và độc tài thì không thể bền vững, không thể tồn tại được lâu. Một thế
lực cầm quyền anh minh, hay tự do cho mình là anh minh, phải nuôi dưỡng, hay chí
ít tạo điều kiện, hay tồi nhất cũng không ngăn cản một lực lượng đối lập lành mạnh.
Một nhà cầm quyền ngăn cản sự hình thành, hay đàn áp lực lượng đối lập thì tuyệt
nhiên không thể là anh minh. Bởi vì sự tồn tại của những lực lượng đối lập kiềm
chế sự lạm quyền, kiềm chế quyền lực, nâng cao năng lực cầm quyền của tất cả các
lực lượng có thể cầm quyền, nó tạo ra cạnh tranh trong chính trường. Cái đó có
lợi cho toàn xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển, nó giúp làm tăng vốn xã hội.
Chính vì vậy xã hội, hay người dân, phải bỏ tiền ra để góp phần duy trì chúng;
nói cách khác ngân sách nhà nước phải hổ trợ chúng hoạt động. Vậy nếu thống nhất
với nhau về các mục tiêu, hay các giá trị cơ bản, thí dụ như làm sao cho '' dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh'' làm sao có hoà bình, ổn định
để mọi người có thể phát huy hết tài năng của mình, để mọi người có thể sống bình
yên, khoan dung với nhau, để Việt Nam khỏi tụt hậu, để chống tham nhũng. Các lực
lượng đối lập nếu chấp nhận các mục tiêu, các giá trị cơ bản đó, cam kết phấn đấu
vì chúng, thì đó là điều kiện, là tiền đề cho một xã hội dân chủ cho sự phát
triển, các lực lượng như thế phải được nuôi dưỡng, phải được khuyến khích. Nếu
thay đổi được thế mới là sáng tạo, mới là cách mạng, mới là tự chủ về tư duy.
Giáo sư e chúng ta sao chép '' các đồng chí Trung Quốc''. Tôi nghĩ chúng ta không
thể và không nên sao chép bất kì ai, song chúng ta phải học cái hay của mọi người,
học cái dở của mọi người để tránh và tìm cách thích ứng cái hay, hay biến tấu cái
hay của người khác vào tình hình cụ thể của chúng ta. Không có gì là xấu hổ khi
không tự mình phát minh ra'' chiếc bánh xe'' mà người khác đã phát minh ra từ lâu.
Điều băn khoăn của Giáo sư về sự sao chép
Trung Quốc về '' chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc'' là đáng trân trọng.
Tôi thì cho rằng họ cũng''
nói một đằng làm một nẻo'' thực ra họ đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa
một cách bài bản, họ đang Hồng Kông hoá, Đài Loan hoá Trung Hoa đại lục,
đang tập trung mọi sức lực để chấn hưng Trung Hoa. Chẳng hề có Marxist leninist
hay tư tưởng Mao Trạch Đông gì cả. Họ vẫn đang phải '' đánh tráo'' khái niệm để
làm yên lòng những người trung kiên với tư tưởng cũ. Hãy học ở họ, ở người Mỹ,
người Nhật, người Nga và tìm ra cái thích hợp với mình. Tôi nghĩ nếu chúng ta,
dám tranh luận, dám đối chọi ý kiến trên cơ sở xây dựng, khoan dung vì các mục
tiêu như tôi nêu ở trên, mà phần lớn được Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra, thì chúng
ta có cơ hội tiến nhanh hơn họ trên con đường chấn hưng dân tộc Việt Nam.
Trăn trở của Giáo sư, với đề xuất phương án của
mình cho quá độ sang chủ nghĩa xã hội, cũng
như những ý kiến phản đối trong đố có ý kiến của tôi, cần được trân trọng.
V. Thay
cho kết luận, hay góp ý kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Hãy thảo luận và thống nhất với nhau về các mục tiêu.
Tôi nghĩ có lẽ không khó để thống nhất về
các mục tiêu cơ bản nhằm chấn hưng đất nước Việt Nam. đảng Cộng sản Việt Nam nêu
ra mục tiêu '' dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
và văn minh''. Tôi tin không người Việt Nam lành mạnh nào không đồng ý. Tuy
vậy, tôi kiến nghị đổi dân chủ lên trước, tức là: Xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Ngoài các mục tiêu chính đó
cần nhấn mạnh đến: phải duy trì hào bình, ổn định xã hội. Không có hoà bình chúng
ta không làm được gì cả. Dân tộc ta đã trải qua chiến tranh triền miên trong suốt
lịch sử nên khao khát hào bình hơn ai hết. Chúng ta phải làm mọi thứ để duy trì hoà bình,
tránh chiến tranh, nhất là nội chiến, nhưng nhân dân ta kiên quyết đứng lên chống
ngoại xâm như đã từng làm trong suốt lịch sử của mình. Cần có ổn định xã hội. Có ổn định xã hội mới
có thể phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật, mới có thể thu hút đầu
tư, mới có thể góp phần bảo vệ hoà bình. Độc lập và tự chủ cũng là mục tiêu cần
giữ vững, nhưng ở đây có sự tế nhị. Độc lập và tự chủ theo nghĩa tuyệt đối là
không có, đừng có những ảo tưởng về vấn đề này mà phải thực tiễn. Về mặt triết
lý, độc lập theo nghĩa tuyệt đối không tồn tại, nó ngang với cái chết. Phụ thuộc, tuỳ thuộc vào
nhau là một trong những đặc trưng vô cùng quan trọng của mọi cấu thành của tất
cả mọi hệ thống. Chúng ta là một phần của khu vực, của
thế giới, phải rất coi trọng mặt phụ thuộc lẫn nhau này trong khi vẫn có mức độ
độc lập, tự chủ trong lựa chọn, trong ra quyết định. Sự phụ thuộc, tuỳ thuộc
vào nhau, các mối quan hệ lành mạnh giúp ổn định hệ thống, thúc đẩy sự phát
triển. Tôn trọng các quyền con người, tôn trọng các giá trị phổ quát được
nêu trong Hiến chương Liên hiệp Quốc, trong Tuyên ngôn về Quyền con người. Nôi
nghĩ đó là các mục tiêu chính, và tôi tin chắc Đảng Cộng sản Việt Nam thống nhất với các mục tiêu ấy, vì chính Đảng
Cộng sản Việt Nam
đã nêu ra chúng hay đã chấp nhận chúng. Làm sao để thực hiện các mục tiêu đừng đánh
tráo khái niệm. Như tôi đã nói ở trên, tên khái niệm không quan trọng, tuy vậy để
tránh hiểu lầm, để tránh '' đánh tráo khái niệm'', chúng ta nên dùng các khái
niệm mà đại bộ phận nhân loại đang dùng, đừng'' sáng tạo'' ra các thuật ngữ mới
của riêng chúng ta, vì điều đó cản trở truyền thông, cản trở sự hiểu biết lẫn
nhau, làm tăng chi phí hoạt động làm giảm hiệu quả. Quan trọng nhất nên hiểu dân
chủ là thế nào?
2. Hiểu thế nào là dân chủ
Vì dân chủ được những người khác nhau hiểu
theo cách khác nhau, nên phải thống nhất về thuật ngữ này. Sau đây tôi trình bày
cách hiểu dân chủ mà tuyệt đại đa số người dân trên thế giới hiểu.
Theo đó, chế độ dân chủ được hiểu là chế độ
trong đó: Công nhận đầy đủ quyền công dân; thể chế nhà
nước pháp quyền trở thành nguyên lý hiến pháp cơ bản; tư pháp độc lập; bầu cử dân
chủ lựa ra những người cầm quyền, các cuộc bầu cử phải tự do và trong sạch, mọi
người đều có quyền tự do nêu ý kiến, có tự do ngôn luận và quyền tiếp cận nguồn
thông tin khả dĩ khác; tự do lập hội, kể cả quyền
lập tổ chức chính trị; và cuối cùng là sự kiểm
soát dân sự đối với các lực lượng vũ trang. Đó là chế độ nơi những
người bị trị có thể sa thải những kẻ cai trị mà không phải dùng đến bạo lực, và
có các chế định cho việc chọn và phế truất những người cầm quyền sao cho những
người cầm quyền khó có thể thay đổi các định chế này.
Có những người coi dân chủ như được hiểu ở
trên chỉ là dân chủ hình thức, dân chủ theo cách hiểu của họ mới là dân chủ đích
thực. May là điều này chẳng còn được mấy ai tin.
Như trên tôi đã trình bày, cạnh tranh trên
chính trường là một điều kiện tiên quyết để có dân chủ, để chống lạm quyền, để
kiềm chế và cân bằng quyền lực, để bảo vệ những kẻ yếu. Xã hội phải tốn chi phí
để duy trì dân chủ, duy trì cạnh tranh chính trị, nhà cầm quyền không được phép
phá huỷ các định chế này, vì thế chúng phải được ghi vào hiến pháp, phải được
hiến định. Hiện tại Đảng Cộng sản Việt Nam
chưa đồng ý với cách hiểu này, vì theo đó đa nguyên chính trị là điều hiển nhiên,
mà Đảng Cộng sản Việt Nam
thì chưa chấp nhận đa nguyên chính trị. Tôi nghĩ cần có trao đổi, tranh
luận thẳng thắn, trên tinh thần xây dựng. Tôi nghĩ để chấn hưng Việt Nam; để làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; để Nhà nước Việt
Nam thực sự là của dân, do dân, vì dân, để
cho trong đất nước này tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân như cụ Hồ từng
mong mỏi, thì chúng ta có thể đi đến một cách hiểu thống nhất. Tôi hy vọng Đảng
Cộng sản Việt Nam sẽ cũng hiểu dân chủ là như vậy, vì chỉ làm như thế thì Đảng
Cộng sản Việt Nam mới thực sự phục vụ lợi ích của mình, lợi ích của dân tộc, lợi
ích của quốc gia, mới giũ được Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực sự xứng đáng là
'' người đầy tớ trung thành'' của nhân dân. Làm khác đi thì đảng Cộng sản Việt Nam sẽ
không còn là đảng được nhân dân tin cậy.
3. Gợi ý
Một khi đã thống nhất được các mục tiêu cơ bản, thống nhất được
cách hiểu dân chủ là gì, thì tất cả những việc cần làm đều chỉ mang tính kỹ thuật
(như sửa đổi hiến pháp, sửa đổi các luật,
xây dựng các định chế, hiệu chỉnh và năng cao hiệu
suất hoạt động của các tổ chức chính trị, các tổ chức nhà nước và các
tổ chức dân sự). việc đổi hay lấy lại tên cũ ( cả đảng và nhà nước) không quan
trọng bằng những cải cách thực sự, tuy vậy có thể có tác dộng tốt, và vì thế cũng
nên cân nhắc. Nhằm giữ vững ổn định, chỉ có các tổ chức chính trị ( không nên có
quá nhiều, 2 hay 3 là đủ để duy trì cạnh tranh) chấp nhận các mục tiêu cơ bản mới
được hoạt động. Và như đã nói ở trên nhà nước, tức là người dân thông qua tiền
thuế của mình, phải bỏ chi phí để đóng góp phần cho các tổ chức đó hoạt dộng. Đó
là một quá trình không thể diễn ra một sớm một chiều, nhưng cũng không cần quá
vài năm nếu chúng ta thống nhất về các mục tiêu, về cách hiểu, về các biện pháp
tiến hành. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới tư duy và bắt tay, khởi
động quá trình đó một cách suôn sẻ, thì đó mới thực sự là đổi mới tư duy./.
http://vn.360plus.yahoo.com/huy_temuajin/article?mid=3
BÀI LIÊN QUAN:
>>> Từ chỗ Tối nhất nhìn ra – Tống Văn Công
BÀI LIÊN QUAN:
>>> Từ chỗ Tối nhất nhìn ra – Tống Văn Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét