Nguyễn Khải 2006 - ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT (1)
(Tuỳ bút chính trị - 2006)
"...Suốt
80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên
gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết,
phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản
thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện
được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một
loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã
trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn
đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ?
Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ.
Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh
doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được
bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ
các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường,
thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân
cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả,
không thể bóp méo hoặc bác bỏ..."
1.
Năm
70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được
mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi
ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang
đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang
vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm
bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là
lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng.... Xuống cái xã bị ghẻ lạnh thì tôi
chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là
rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút ký “Mất toi một cuốn sách”.
Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái
chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất
nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó
là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
2.
Tôi
là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đã
biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên. Tôi nói thế chả phải vì cái
thói cơ hội, thời này có mấy ai thích nói mình thành tài là nhờ cách
mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm hẳn vào lòng nâng niu, vỗ
về mà vẫn không nên người thì sao ? Là vì họ còn thiếu một yếu tố nữa,
thiếu cái đó dầu họ có được bước trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời
vẫn không ra con người tử tế. Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân
nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống
hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra thì còn vô vàn chuyện
buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của cuộc sống.
Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích xuất hiện như
người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn tỏ ra uyên bác
bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có được một chút hài
hước, có khả năng tự ngắm mình trong khi diễn trò thì họ sẽ biết cách tự
kiềm chế trong một giới hạn nào đó.
Muốn
có cái mình không thể có không chỉ là chuyện buồn cười mà còn là căn
bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các triết gia, giáo chủ cũng
không thoát khỏi cái trò cười ấy. Họ muốn cho nhân loại cái họ không thể
có, muốn cứu nhân loại bằng những phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê
say tự huyễn hoặc mà thôi. Học thuyết xã hội hay tôn giáo khôn ngoan
phải là học thuyết mở, có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác,
luôn luôn biến hoá, lấy sự biến hoá của thời thế và con người làm mục
tiêu tối thượng để tự điều chỉnh. Học thuyết là do con người làm ra, một
trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và
không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng
Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất
ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai
chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự
đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán
được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời
tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để
tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần
thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút
giá trị gì.
3.
Tính
hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi
chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh
sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo.
Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở
thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó
chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly,
bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xã hội đã
phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng
liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn,
cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình
ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời
nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc
gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái
bóng che ấy. Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có
dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã
bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài.
Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần
khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm
đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình
một đời của riêng mình. Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách
làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách
mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản”
ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính
trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với
lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng
định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết
học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của
riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để
nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn
nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới
cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu
thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử,
trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm
gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo
sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có
quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm,
qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống,
sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội. Còn một số nhỏ vì
không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các
nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong
khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm
xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật
quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự,
nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều
đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.
4.
Trong
suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu
cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi
người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học
thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt
đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp
khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham
vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh,
sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có
chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. Trong chiến tranh tập thể
gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát
gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của
nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia
của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị
đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể
bị đổ vỡ. Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính
quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác
nhau trong một cộng đồng : dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống…
trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này
nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là
quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái
hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao ? Nhưng người dân
phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì
để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai
nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh
nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời.
Vậy phải làm gì nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng
chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại
các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an
ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi
ngày về hưu thôi. Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ
bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước
không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành
chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê
mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy
đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận,
không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp,
vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng
mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu chuẩn mới có
tên gọi là “ mặc kệ nó ”. Nó
là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan
hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian
dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng
cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích
bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân
chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá
nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó. Ở đây tôi
muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ
là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có
tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so
sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do
vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị,
không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt
sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do
phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được
ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới
có thể đơm hoa kết trái được.
5.
Một
đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng thành nô lệ không được
pháp luật che chở, làm người cũng khó nói gì tới ý thức cá nhân trong
mỗi con người. Ý thức cá nhân là ý thức về cái riêng biệt của mình, về
cái có thể cống hiến của mình cho cộng đồng không giống với một ai do có
một cách cảm nhận riêng, một cách suy nghĩ riêng, từ đó… Những cái giá
trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối
tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp. Ở xã hội
tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho
những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì
đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức,
làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong
tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được
thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm
chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư
bản. Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao ? Chả có ai
kêu ca gì. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần
của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga [Vladimir Dudinzev / Владимир Дудинцев - chú thích của Diễn Đàn] viết cuốn sách Người ta không chỉ sống bằng bánh mì [Не хлебом единым - chú thích của Diễn Đàn]
bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đã viết sai vì các nước xã
hội chủ nghĩa rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ đọc
sách rất nhiều, trên xe điện, xe buýt, trong công viên, đứng xếp hàng
từng dãy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ đều mở
sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của họ là ở các
trang sách. Chỉ có những giây phút chìm đắm trong sự đọc họ mới có cơ
hội ngẫm nghĩ về thân phận của mình, của đồng loại, tìm lại cái bản gốc
cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của riêng mình. Rời khỏi
trang sách là rơi ngay vào vòng quay của trăm ngàn công việc chả có
nghĩa lý gì ngoài sự mưu sinh để tồn tại. Những ngày nghỉ, những giờ tạm
gọi là rảnh rỗi họ cũng không được ngồi một mình, ngẫm nghĩ một mình,
có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn nhỏ, những phong trao cam kết thi đua
và vô vàn cuộc họp của ngành của giới đã choán hết phần thời gian còn
sót lại… Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống
trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc
nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế dộ bằng vũ
trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi
bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề
phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả
bạn bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự
do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ
được !
6.
Suốt
80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên
gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết,
phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản
thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện
được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một
loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã
trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn
đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ?
Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ.
Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh
doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được
bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ
các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường,
thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân
cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả,
không thể bóp méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản.
Chế độ tư bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong
kiến tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời
đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ cấm, bỏ
tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những người cộng
sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa, như thời phong
kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xã hội có thêm nhiều nghề mới do
công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, hình thành dần nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm buôn bán, có các đường lớn
xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống và đường sắt, có báo hàng ngày,
có tuần báo và tạp chí. Tiếng nói của công chúng sau nhiều thế kỷ câm
bặt đã được cất lên bày tỏ thân phận và nguyện vọng của mình, dẫu còn
yếu ớt nhưng đã gây được tiếng vang trong cả nước. Dầu xã hội phát triển
một cách nhem nhuốc, đau đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của
thời phong kiến. Thời thế là vị tư lệnh tối cao, không có học thuyết
nào, một thiên tài chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó.
Dám chống lại nó học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách thì thân bại
danh liệt. Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại
này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị
bền vững cho những xứ sở nó đô hộ. Còn những vương triều phong kiến dẫu
được cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xã hội hủ lậu
và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu còn trị vì
Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đã quá cũ
kỹ thì vẫn cứ thua, có khi còn thảm bại hơn vì lòng kiêu hãnh bệnh tật
của họ. Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận
đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những
cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng
động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới
chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi
sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là
cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh
số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể
nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương.
Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen
nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ
bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ
đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở
về hiện trạng hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống
đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của
mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái
“ bản lai diện mục” của chính họ.
Tuỳ bút chính trị cuối cùng
của nhà văn Nguyễn Khải (1930-2008)
Nguồn: http://vanchuong. vnweblogs. com
ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT (1)
(còn tiếp)
BÀI ĐỌC THÊM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét