Quyền bất chính
NQL:Đây
là bài thứ hai trong số 4 bài viết về Hiến pháp 2013 của tiến sĩ Hoàng
Xuân Phú. Rất dài. Bà con có thể bỏ qua ngay để đi ngủ, hoặc thức đến
hai giờ sáng để đọc nó một cách chậm rãi và kĩ lưỡng rồi thao thức cho
đến sáng mai.... Bảo đảm bà con sẽ không tiếc một đêm thức trắng.
Bài này được chia thành 5 phần như sau:
Phần 1 (Bớt xén quyền con
người) phân tích tính vi hiến của
Điều 14 Hiến pháp 2013, quy định rằng "các quyền con người… được công
nhận… theo Hiến pháp và pháp luật".
Phần 2 (Ép thầy tu cầm súng) bàn về tính vi hiến của Điều 45 Hiến pháp
2013, quy định rằng "công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân
sự".
Phần 3 (Bắt người dưng thờ phụng) chỉ ra sự vi hiến của Điều 65 Hiến pháp
2013, đòi hỏi "Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt
đối trung thành… với Đảng… bảo vệ… Đảng… và chế độ xã hội chủ nghĩa… thực hiện
nghĩa vụ quốc tế".
Phần 4 (Tước đoạt quyền sở hữu) chứng minh sự vi hiến của Điều 53 Hiến pháp
2013, quy định rằng "Đất
đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý".
Phần 5 (Chiếm quyền lực Nhân dân) vạch ra tính vi hiến của Điều 4 Hiến pháp
2013, mặc định rằng "Đảng
Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội", và tính vi hiến của Điều 9 Hiến pháp
2013, ấn định rằng "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện… quyền… của Nhân dân".
Một hành vi hay văn bản được coi là vi phạm hiến pháp, gọi tắt là vi hiến, nếu nó vi phạm một quy định nào đó trong hiến pháp.
Văn bản pháp luật vi hiến thì không hiếm. Nhưng hiến pháp mà cũng vi hiến thì hiếm hoi đến mức có thể coi
là "đặc sản" của chế độ.
Tiếc rằng, Hiến pháp 2013 – do Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28 tháng
11 năm 2013 – lại thuộc loại ấy. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích mấy điều
khoản vi hiến để làm sáng tỏ nhận
định này.
Vì mọi điều khoản trong một bản hiến pháp đều
được xem là "chuẩn mực",
nên khi hai nội dung mâu thuẫn với nhau thì có thể dùng điều này phủ định điều
kia và ngược lại, để cuối cùng thì cả hai đều trở thành vi hiến. Tuy nhiên, ta sẽ không phủ định triệt để cả hai, mà "tha" cho điều khoản có vị thế ưu tiên hơn trong hiến pháp, và
dùng nó để đánh giá những điều khoản khác. Vậy căn cứ vào đâu để xác định vị thế ưu tiên trong hiến pháp? Theo tư
duy của các nhà lập hiến, chắc hẳn Chương I có vị thế ưu tiên nhất, và Chương II có vị thế ưu tiên hơn (tức là quan
trọng hơn) so với các chương sau. Trong nội bộ một chương, điều được đặt
lên trước có lẽ cũng được coi là quan
trọng hơn điều bị đặt ở phía sau.
Để chứng minh một điều khoản nào đó của Hiến pháp 2013 là
vi hiến, ngoài những quy tắc suy luận
lô-gích tối thiểu, ta sẽ chỉ dựa vào bản thân Hiến pháp để lập luận. Kể cả khi trích dẫn Hiến chương Liên hợp quốc hay Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948, thì không có nghĩa là viện dẫn văn bản ngoại
lai, mà chỉ nhằm khẳng định đối tượng đang được khảo sát vi phạm Điều 12 Hiến pháp 2013, cam kết rằng:
"Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam… tuân thủ Hiến chương Liên
hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên."
Để tránh hiểu lầm là sự vi hiến của Hiến pháp 2013 chỉ dừng lại ở
6 điều khoản kể trên, đoạn kết của bài này đề cập thêm một ví dụ vi hiến, đó là Điều 10 Hiến pháp
2013, quy định rằng "Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của
giai cấp công nhân và của người lao động… đại diện cho người lao động… bảo vệ
quyền, lợi ích… của người lao động".
Ba trong số bẩy nội dung
vi hiến kể trên đã được góp ý và bị
phê phán rất nhiều trong quá trình thảo luận Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Song
nhà cầm quyền vẫn bất chấp, cố bám giữ bằng được. Khi tranh luận về bản Dự thảo,
cả hai phía đều dựa chủ yếu vào quan điểm nhận thức để bảo vệ hay bác bỏ. Lập
trường quá khác nhau, nên khó tránh khỏi quá đà, lắm lúc còn nặng lời thóa mạ.
Và như một bản năng, mỗi lần đuối lý, thì bộ máy lý luận và tuyên truyền của
nhà cầm quyền lại thường quy chụp những ý kiến trái chiều là thù địch hay phản
động. Bây giờ, trong bài viết này, mọi lập luận chỉ đơn thuần dựa trên Hiến
pháp 2013. Cho nên, nếu vẫn cố quy chụp các kết luận được rút ra ở đây là phản
động, thì chẳng khác gì coi Hiến pháp của chế độ đương thời là phản động.
1. Bớt xén quyền con người
"Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật."
Đây là một điều khoản vi hiến rất tinh vi, bởi vì chất vi hiến ẩn khuất trong một mệnh đề được
viết gián đoạn: "Các quyền con người…
được công nhận… theo Hiến pháp và pháp luật". Điều đó cũng có nghĩa
là: Các quyền con người chỉ được
công nhận theo Hiến pháp và pháp luật. Nếu quyền con người nào không hoặc chưa
được Hiến pháp và pháp luật công nhận đích danh, thì không hoặc chưa được thừa
nhận.
Để chứng minh nhận định trên, ta cần chỉ ra rằng cụm từ "theo Hiến pháp và pháp luật"
được gắn với cả bốn động từ trong cái mớ lòng thòng "được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm". Thật vậy,
giả sử cụm từ "theo Hiến pháp và
pháp luật" chỉ gắn với động từ cuối cùng là "đảm bảo", thì phần còn lại (trước đó) sẽ chứa đựng nội
dung (hoàn chỉnh) là:
"Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ."
Câu này ở thể bị động, nhằm hiến
định nghĩa vụ của Nhà nước. Khi chuyển sang thể
chủ động, ta thu được mệnh đề:
"Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ các quyền con người."
"Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân."
Lập luận vừa rồi có lẽ chưa đủ để chứng minh nhận
định trên, bởi vì viết trùng lặp là một căn bệnh của Hiến
pháp 2013. Cho
nên, cần viện dẫn thêm cả Hiến pháp 1992, trong đó quy định rằng:
"Điều 50 Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
luật."
Rõ ràng,
Hiến pháp 1992 nhấn mạnh đến hai lần, rằng "các quyền
con người… được… thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật" và "quyền…
của công dân do Hiến pháp và luật quy định". Hệ quả pháp lý là:
Những quyền nào không "được quy định
trong Hiến pháp và luật" thì không được nhà cầm quyền thừa nhận. Hơn
thế nữa, vì "các quyền con
người" chỉ "được… thể hiện
ở các quyền công dân", nên Hiến pháp 1992 không thừa nhận quyền con người của những người Việt bị mất quyền
công dân (chẳng hạn trong thời gian chấp hành án tù giam) và của những người
nước ngoài đang có mặt ở Việt Nam (do họ không phải là công dân Việt Nam).
Vì Hiến pháp 2013 "kế
thừa" Hiến pháp 1992, như được khẳng định trong Lời nói đầu, nên ý "quyền
con người được công nhận theo Hiến pháp và pháp luật" tại Điều 14 Hiến pháp 2013 là kế thừa của ý "quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và luật" tại
Điều 50 và Điều 51 của Hiến pháp 1992 mà thôi.
Suốt mấy chục năm qua, nhà cầm quyền luôn dị ứng
với khái niệm "quyền con người",
coi "nhân quyền" như một
thứ xấu xa, cấm kỵ. Mặc dù đó là những
quyền hiển nhiên được Tạo hóa ban cho mọi người sinh ra trên Trái đất, như
đã được trích dẫn trong "Tuyên ngôn độc lập" khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không thể phủ định được mãi, giờ đây họ
buộc phải "chấp nhận khái niệm quyền
con người" trong Hiến
pháp 2013. Để
tiệm cận được cái chân lý quá hiển nhiên ấy, giới cầm quyền phải vật lộn rất
vất vả với chính bản thân mình, đến mức cho rằng cú nhích quá muộn màng đó là "một bước tiến rất lớn", như
đã thể hiện trong lời phát biểu của ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp
luật của Quốc hội khóa XIII và Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:
Cần
phải lưu ý rằng: Đại từ nhân xưng "Chúng
ta" chỉ đúng với ngữ cảnh tâm sự trong nội bộ giới cầm quyền. Còn khi họp báo, nghĩa là nói với "người ngoài", thì ông Lý nên xưng "Chúng tôi" cho chính xác. Bởi vì đối với quảng đại Nhân
dân thì quyền con người là một khái
niệm hiển nhiên, đến mức… phải ngạc nhiên: Tại
sao họ lại "chậm hiểu" đến như vậy? "Chậm" thì sao không tránh sang một bên, để rộng đường cho Nhân
dân đi tới tương lai?
Qua khẳng định của ông Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ta thấy rõ rằng nhà cầm quyền vẫn chưa chịu thừa nhận quyền
con người một cách đầy đủ, mà mới chỉ dừng lại ở mức "thể hiện quyền con người trong hiến pháp bằng
những quy định cụ thể". Sao lại ì ạch, khó nhọc đến như vậy? Làm
hiến pháp, làm luật, thì phải hiểu được kiến thức sơ đẳng là: Dù muốn thì cũng không thể quy định hay liệt
kê hết thảy mọi thứ trong hiến pháp, pháp luật, và nếu điều gì không được liệt
kê thì không có nghĩa là nó bị phủ nhận. Để tránh hiểu lầm, 222 năm trước các nhà lập hiến
Mỹ đã bổ sung thêm điều sau đây vào Hiến pháp Mỹ:
"Việc liệt kê một số quyền
trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người
dân." (Tu chính IX)
Quyền
công dân có thể mang tính đặc thù của từng quốc gia, nhưng quyền con người thì mang tính phổ quát
trên toàn thế giới, chứ không phải là thứ do nhà cầm quyền của từng nước ban
phát. Bình thường thì Nhà nước phải thừa nhận tất cả các quyền con
người, cho dù các quyền đó có được đề cập cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật
hay không. Quyền con người được đề cập trong Điều 3 Hiến pháp
2013 phải mang ý nghĩa như vậy. Do
đó, việc Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền con người, chỉ "công
nhận… theo Hiến pháp và pháp luật", là vi phạm Điều 3 Hiến pháp 2013.
Điều 56 Hiến chương Liên hợp quốc đòi hỏi:
"Tất cả thành viên cam kết bằng các hành động chung hoặc riêng trong
sự nghiệp hợp tác với Liên hợp quốc để đạt được những mục đích ở Điều 55."
"Tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con người và các quyền tự do
cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo."
Điều 1 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khẳng định:
"Mọi
người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền."
Rõ
ràng, việc Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền
con người ở Việt Nam là vi phạm nguyên tắc "các quyền con người… không phân
biệt chủng tộc" và "mọi người sinh ra đều…
bình đẳng về… các quyền".
Trong số các quyền
con người chưa được nhà cầm quyền Việt Nam "công nhận… theo Hiến pháp và
pháp luật" có quyền "tự do
tư tưởng". Vậy là vi phạm Điều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
"Mọi
người có quyền tự do tư tưởng, lương
tâm và tôn giáo."
Đó là một quyền rất cơ bản, là tiền đề của nhiều
quyền tự do khác. Bởi lẽ, nếu không có quyền "tự do tư tưởng", tức
là "tự do nghĩ khác", thì
cái gọi là "tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình" cũng chỉ là một thứ "tự do nô lệ", "tự
do phụ họa", dành riêng cho những ai chỉ biết ca ngợi nhà cầm quyền và
"ngân nga" tư tưởng được
coi là chính thống mà thôi. Đúng như Rosa Luxemburg (1871-1919) – nhà lý luận Mác-xít tiền bối bậc
thầy của những người cộng sản Việt Nam – đã viết trong tác phẩm "Về cách mạng Nga" (Zur russischen
Revolution – Xuất bản lần đầu vào năm 1922, bàn về cuộc cách mạng của những người
cộng sản Nga, tạo dựng ra chế độ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết):
"Tự do mà lại chỉ dành cho những người ủng hộ chính phủ, chỉ dành
cho các đảng viên của một đảng – dù họ đông bao nhiêu đi nữa – thì đó không
phải là tự do. Tự do luôn chỉ là tự do của những người nghĩ khác."
Đáng lưu ý là: Trong Hiến pháp 2013, một số quyền
con người bị hạn chế bằng cách chỉ được thể hiện dưới dạng quyền công dân, ví dụ như:
"Công dân có quyền tự do đi lại và cư
trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước." (Điều 23)
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình." (Điều 25)
Hệ quả pháp lý là: Theo Khoản 1 Điều 14 thì những quyền này chỉ còn là
quyền công dân, không được công nhận là quyền con người, nên những người không mang quốc tịch Việt Nam
không được hưởng trên đất Việt Nam. Chẳng hạn, người gốc Việt mang quốc tịch nước
ngoài có thể không được về quê hương Việt Nam, hay khi đang ở trên đất Việt Nam
thì người nước ngoài không có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Như vậy là vi phạm ba điều khoản
sau đây của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
"Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở." (Điều 13)
"Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận
và bày tỏ quan điểm; quyền này bao gồm cả tự do quan điểm mà không bị can thiệp
và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương
tiện truyền thông bất kể biên giới." (Điều 19)
Với các
chứng cứ kể trên, ta có thể khẳng định rằng Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều 12 Hiến pháp 2013, trong đó cam kết "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên".
Tóm lại, Điều 14 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì
nó mẫu thuẫn với Điều 3 và Điều 12, tức là vi phạm hai điều có vị thế ưu tiên hơn nó trong cùng Hiến pháp.
Sự vi
hiến này không phải là vô tình, mà là sản phẩm truyền thống của "hội chứng ban phép", tức
là lối tư duy thống trị, cho
rằng người dân chỉ được làm và chỉ
được hưởng những thứ mà nhà cầm quyền cho phép. Nó xuất phát từ ngộ nhận, cho rằng thế lực cầm quyền "cao hơn hẳn" tất thảy Nhân
dân và có "quyền sinh quyền
sát" đối với cộng đồng Nhân dân. Đó là một căn bệnh trầm kha, đã trói
buộc Nhân dân ta và cản trở sự phát triển của Dân tộc ta suốt mấy chục năm qua,
biến Dân ta thành một thứ "nô lệ tư
duy". Cái gọi là "đổi
mới" (được tiến hành từ những năm 80 của thế kỷ 20) chẳng qua là nhà
cầm quyền chịu "cởi trói", nói
đúng hơn là "nới trói", trả
lại cho Dân một phần quyền sinh sống và làm ăn tự do vốn có tự bao đời. Cho
nên, nếu muốn thực sự giải phóng Nhân
dân, giải phóng Dân tộc khỏi xiềng xích, thì phải cương quyết triệt xóa
"hội chứng ban phép" này.
2. Ép thầy tu cầm súng (sát sinh)
Điều 45 Hiến pháp 2013 quy định:
"Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự..."
"Điều 3 Công dân nam giới, không
phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín
ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội
nhân dân Việt Nam."
Khi phục vụ tại ngũ trong quân đội thì phải luyện tập giết kẻ thù, và trong
hoàn cảnh cần thiết thì cũng phải giết kẻ thù. Mà kẻ thù, dù xấu xa, phi nghĩa
đến đâu, thì cũng là con người. Vì vậy, bắt cả những người có tín ngưỡng tương
tự như "Ngũ
giới" của Phật tử
phải "thực hiện nghĩa vụ quân
sự" tức là bắt họ phải tham
gia "sát sinh", là vi phạm "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo"
của họ. Rõ ràng, Điều 45 vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
"1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước
pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật."
Lý lẽ trên đơn giản và hiển nhiên
đến mức không thể né tránh câu hỏi: Chẳng
nhẽ Quốc hội không có ai thực sự hiểu và bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo hay sao?
Các đại biểu "vô thần" không hiểu tín ngưỡng đã đành, chẳng nhẽ các đại
biểu mặc áo cà sa cũng không hiểu nốt?
Hay họ hiểu cả, nhưng chỉ định
đưa "quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo" vào Hiến pháp để
cùng với các quyền tự do báo chí, lập hội,
biểu tình… hóa trang dân chủ cho chế độ, chứ chẳng hề có ý định tôn trọng
các quyền đó? Nghi ngờ này đã được xác nhận quá nhiều lần trên thực tế, và nay
lại được củng cố thêm bởi Khoản 3 của Điều 24 Hiến pháp
2013, quy định rằng "không ai được… lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật". Xét về mặt pháp lý, khoản cấm này là hoàn toàn thừa,
vì đã có quy định tổng quát tại Điều 46 Hiến pháp
2013 là "công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp và pháp luật", và hệ quả hiển nhiên là "không ai được vi phạm pháp luật", bất luận vì
lý do gì, cho dù lợi dụng hay không lợi dụng một quyền nào đó. Cho nên, có lẽ vai trò của khoản cấm "lợi dụng" chỉ là tạo cớ để khước từ hay hạn chế "quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo",
như đã trao đổi trong bài "Teo dần quyền con người trong Hiến pháp".
Nếu thực tâm tôn trọng "quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo", thì các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam nên
thay Khoản 3 của Điều 24 Hiến pháp
2013 bằng Khoản 3 của điều sau đây
trong Hiến pháp CHLB Đức (Grundgesetz für die Bundesrepublik
Deutschland):
(1) Tự do tín
ngưỡng, tự do lương tâm và tự do biểu lộ tôn giáo và thế giới quan là bất khả
xâm phạm.
(2) Việc thực
thi tôn giáo mà không bị quấy rối được bảo đảm.
(3) Không ai có thể bị ép buộc cầm súng phục vụ
chiến tranh trái với lương tâm của bản thân. Chi tiết được quy định trong
một luật của Liên bang."
Khoản 3 này đã được đưa vào Hiến
pháp CHLB Đức từ năm 1949, cách nay đã hơn
60 năm. Qua đó có thể thấy tư duy pháp luật và ý thức coi trọng quyền con người
của giới cầm quyền Việt Nam tụt hậu đến mức nào.
Trên phạm vi quốc tế, Nghị quyết 1995/83 (ban
hành ngày 08/03/1995) của Ủy ban Nhân quyền
Liên Hợp Quốc (The United Nations Commission on Human
Rights, CHR) đã khẳng định:
"Quyền từ chối phục vụ trong quân đội của mỗi người vì lý do lương tâm là thể hiện hợp pháp của quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo."
Và còn nhấn mạnh
rằng quyền đó dựa trên Điều 18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (mà Việt Nam là thành viên từ
20/09/1977) và Điều 18 Công ước Quốc tế về
các Quyền Dân sự và Chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights, mà Việt Nam gia nhập
vào ngày 24/09/1982).
Nội dung này cũng được tái khẳng định trong một số văn kiện
khác của CHR, ví dụ như Nghị quyết 1998/77 (ban hành ngày 22/04/1998) và Nghị quyết 2004/35 (ban hành ngày 19/04/2004).
Mới trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền
Liên Hợp Quốc (The United Nations Human Rights Council,
HRC) nhiệm kỳ 2014-2016,
nhà cầm quyền Việt Nam không thể phớt lờ các nghị quyết kể trên của CHR (nay được thay
thế bởi HRC), và bỏ qua những
cam kết khi ra ứng cử. Vậy mà 15 ngày sau khi trúng cử, Quốc hội lại thông qua một
bản Hiến pháp với Điều 45 bất
chấp "quyền từ chối phục vụ trong
quân đội vì lý do lương tâm". Như thế là Điều 45 vi phạm cả Điều 12 Hiến pháp 2013, hiến định trách nhiệm "tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là thành viên".
Sự vi hiến của Điều 45 Hiến pháp 2013 không chỉ dừng ở đó. Để nhận diện
điều bị vi phạm tiếp theo, ta hãy ước lượng xem quy mô quân đội sẽ lớn thế nào,
nếu điều hiến định này được thực hiện nghiêm túc.
Theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật nghĩa vụ quân sự số 43/2005/QH11, "độ
tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ mười tám tuổi đến hết hai mươi lăm
tuổi" và "thời hạn phục vụ
tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan và binh sĩ là mười tám tháng". Theo kết quả tổng điều tra dân số
năm 2009 thì có
10,8 triệu công dân nam ở độ tuổi 15-19 và 10,0 triệu công dân nam ở độ tuổi
20-24. Như vậy, nếu phân đều số công dân nam trong độ tuổi 18-25, thì bình quân mỗi năm có khoảng 2 triệu công dân
nam cần nhập ngũ để "thực hiện
nghĩa vụ quân sự".
Trong khi đó, theo thông tin của Đại tá Nguyễn
Ánh Dương tại buổi thông báo tình hình cho đoàn Tùy viên quân sự các nước tại
Việt Nam, được tổ chức vào ngày 30/09/2013, thì tổng quân số hiện nay của Quân
đội nhân dân Việt Nam là 450.000. Để duy trì quân số đó với thời gian phục vụ tại
ngũ tối thiểu là 18 tháng = 1,5 năm, thì mỗi năm chỉ cần gọi nhập ngũ chưa đến
450.000/1,5 = 300.000 người. Như vậy là có hơn (2.000.000 – 300.000)/2.000.000
= 85% công dân nam không bao giờ phải
hay được phục vụ trong quân đội. Đó
là tính toán được đơn giản hóa, dựa trên thời gian tại ngũ ở mức thấp nhất (18
tháng). Trên thực tế, bên cạnh lực lượng chuyên nghiệp đông đảo, rất nhiều quân
nhân phải phục vụ tại ngũ 24 tháng, theo quy định của Điều 14 Luật nghĩa vụ quân sự hiện hành:
"Thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan chỉ huy, hạ
sĩ quan và binh sĩ chuyên môn kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan và binh
sĩ trên tàu hải quân là hai mươi bốn tháng."
Và
trong số phục vụ tại ngũ còn có rất nhiều phụ nữ. Vì vậy tỷ lệ công dân nam
không bao giờ phục vụ trong quân đội còn cao hơn hẳn. Thậm chí, Trung tướng
Trần Văn Độ (Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối
cao) nói rằng: "Hiện nay, trong những người đủ tiêu chuẩn, chỉ khoảng
5% thực hiện nghĩa vụ quân sự".
Sau khi trừ bớt số được miễn hoặc được hoãn
(nhưng rồi trở nên quá tuổi nhập ngũ nên cũng thành được miễn) nghĩa vụ quân sự
theo quy định của Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự
(sửa đổi năm 2005), và trừ
cả những người được tuyển vào lực lượng Công an nhân dân, thì tỷ lệ "phi nghĩa vụ quân sự" vẫn còn rất
cao. Như vậy, quy mô
quân đội hiện tại tất yếu dẫn đến kết cục là có rất nhiều công dân nam không
phải hoặc không được "thực hiện nghĩa vụ quân sự". Do đó, Điều 45 Hiến pháp 2013 gây ra sự bất
bình đẳng trước pháp luật trên quy mô rất lớn, tức là vi phạm Điều 16 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
"Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật."
Tóm
lại, trong Hiến pháp 2013, Điều 45 vi phạm ba điều
ở vị thế ưu tiên hơn, đó là Điều 12, Điều 16 và Điều 24. Vì vậy, Điều 45 Hiến pháp 2013 là vi hiến!
Hệ quả không chỉ dừng ở đó. Trong chế độ mà tham
nhũng ngự trị, hàng năm có hàng triệu công dân nam có thể phải nhập ngũ theo
quy định của pháp luật, nhưng quân đội lại chỉ cần và chỉ có thể tiếp nhận một
phần rất nhỏ trong số đó, thì dễ xảy
ra tiêu cực trên diện rộng để tránh "thực hiện nghĩa vụ quân sự".
Nghĩa là, với việc hiến định "công
dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự" tại Điều 45, Quốc hội khóa XIII đã hành động ngược lại với
nghĩa vụ được quy định tại Điều 8 Hiến pháp 2013:
"Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải… kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng…"
Vậy thì
phải khắc phục như thế nào? Chẳng cần phải
sáng tạo ra điều gì mới mẻ, mà chỉ cần khiêm tốn học hỏi thiên hạ và vận dụng
những kiến thức đã trở thành kinh điển trên thế giới.
Để không vi phạm Điều 24 Hiến pháp
2013 về "quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo" thì phải
chấp nhận để những người khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng được thực hiện
"nghĩa vụ thay thế". Một ví dụ đáng để tham khảo là Điều 12a Hiến pháp CHLB Đức, với hai khoản đầu tiên được viết như sau:
"(1) Đàn
ông đủ 18 tuổi có thể phải phục vụ trong lực lượng quân đội, lực
lượng biên phòng, hoặc trong một tổ chức bảo vệ dân sự."
"(2) Người
nào từ chối phục vụ chiến tranh bằng vũ khí vì lý do lương tâm thì có thể phải phục vụ thay thế. Thời gian phục vụ
thay thế không được lâu hơn thời gian nghĩa vụ quân sự. Chi tiết được quy định
bằng một luật, trong đó không được hạn chế quyền tự do xác định lương lâm và
phải đưa ra một khả năng phục vụ thay thế không
liên quan tới lực lượng quân đội và lực lượng biên phòng."
Cụ thể hóa điều hiến định trên, Luật từ chối phục vụ chiến tranh (Kriegsdienstverweigerungsgesetz) của CHLB Đức quy định rằng những người không muốn cầm súng phải trải qua thủ tục xem xét, và nếu được công nhận là "người từ chối phục vụ chiến tranh" (Kriegsdienstverweigerer, conscientious
objector), thì sẽ được thay thế nghĩa vụ quân sự bằng "phục vụ dân sự" (Zivildienst, civilian service). Theo Điều 1 của Luật phục vụ dân sự của những người từ chối phục vụ
chiến tranh (Gesetz über den Zivildienst der Kriegsdienstverweigerer) thì nhiệm vụ của họ là "phục vụ phúc lợi chung, trước hết là trong lĩnh vực phúc lợi xã
hội", ví dụ như chăm sóc người già, người tàn tật, hoạt động cứu hộ,
chuyên chở bệnh nhân…
"Phục vụ dân sự" thay thế cho nghĩa vụ quân sự không phải là
chuyện mới mẻ. Nước đầu tiên triển khai "phục vụ dân sự" là Đan Mạch
(vào năm 1917), tiếp sau đó là Hà Lan (1920), Thụy Điển (1920), Na Uy (1921) và
Phần Lan (1931). Ngược lại với CHLB Đức, một số nước quy định thời gian "phục vụ dân sự" dài hơn thời gian nghĩa vụ quân sự, ví
dụ như Áo, Hy Lạp, Na Uy và Phần Lan. Có lẽ đó là một biện pháp để hạn chế tỷ lệ lựa
chọn hình thức "phục vụ dân sự".
Nếu triển khai
chế độ "phục vụ dân sự", Điều 45 về "nghĩa
vụ quân sự" sẽ thoát khỏi tình
trạng vi phạm Điều 24 Hiến pháp
2013 về "quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo". Nếu mở rộng diện "phục vụ dân sự" ra ngoài phạm
vi của những người khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng, thì có thể hạn chế
phần nào mức độ vi phạm Điều 16 về "bình
đẳng trước pháp luật". Tuy nhiên, không thể và không nên mở rộng phạm vi "phục vụ dân sự" đến mức
huy động hết tất cả những người không thực thi "nghĩa vụ quân sự". Bởi vì cái giá phải trả cho sự "bình đẳng trước pháp luật"
đối với "nghĩa vụ quân sự"
là quá đắt. Thật vậy, việc tổ chức "phục vụ dân sự" trên quy mô cả
triệu người không chỉ là rất phức tạp và quá tốn kém, mà đó cũng là nguồn khổng
lồ đẻ ra tiêu cực. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế xã hội và chất lượng của hình thức
"phục vụ dân sự" kém xa so
với việc để cho triệu người đó lao động bình thường, rồi nộp thuế, và dùng tiền
thuế để thuê nhân công chuyên nghiệp làm phúc lợi xã hội.
Một sáng kiến mới mẻ, có lẽ chỉ có thể nẩy sinh ở
nước CHXHCN Việt Nam, là "cho phép đóng một khoản
tiền để không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nhằm bảo đảm sự công bằng giữa
những người đủ tiêu chuẩn". Nó
giúp tăng ngân sách và hạn chế tiêu cực trong quá trình lập danh sách thực hiện
nghĩa vụ quân sự. Chi phí tổ chức cho việc thu tiền này cũng thấp hơn nhiều so
với triển khai "phục vụ dân sự". Tuy nhiên, giải pháp này không cải thiện triệt để tình
trạng bất bình đẳng trước pháp luật,
mà ngược lại còn hợp pháp hóa hố sâu ngăn cách giữa kẻ giàu và
người nghèo.
Một biện pháp khả thi để giảm bớt
sự bất bình đẳng là tăng "công suất dùng người" của quân đội bằng
cách rút ngắn thời gian thực hiện "nghĩa vụ quân sự", giống
như Áo (6 tháng), Đan Mạch (4 tháng), Estonia (8 tháng) và Hy Lạp (12 tháng)… Hai câu hỏi nảy sinh là: Có thể rút thời gian tại ngũ xuống mức nào để vẫn còn đủ thời gian huấn
luyện, nhằm đảm bảo chất lượng chiến đấu của quân đội? Với mức thời gian đó thì
quân đội đã có đủ chỗ để thu nạp hết những người phải thực hiện nghĩa vụ quân
sự hay chưa?
Giải pháp triệt để thường được áp
dụng trong thời bình là xóa bỏ hoặc tạm dừng chế độ nghĩa vụ quân sự, và xây
dựng quân đội tự nguyện thay cho quân đội nghĩa vụ. Một số
nước tiêu biểu theo xu hướng này là Anh (từ 1963), Ba Lan (từ 9/2009), Bồ Đào Nha (từ 10/2004), Đức (từ
7/2011), Hà Lan (từ 9/1996), Hungary (từ 11/2004), Italia (từ 7/2005), Mỹ (từ
1973), Pháp (từ 7/2001), Rumani (từ 2007), Tây Ban Nha (từ 1/2002)… Trong
số 28 nước tham gia liên minh quân sự NATO, chỉ
còn 5 nước duy trì chế độ nghĩa vụ quân
sự là Đan Mạch, Estonia, Hy Lạp, Na Uy và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong
số 28 nước tham gia Liên minh Châu Âu (European Union), ngoài Đan Mạch, Estonia và Hy Lạp, thì chỉ còn 3 nước nữa vẫn duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, đó là Áo, Phần
Lan và Síp. Riêng Đan Mạch thì đã xây dựng quân đội tự nguyện từ năm 2005, và chỉ
trong trường hợp thiếu người tự nguyện gia nhập quân đội mới "rút thăm" để chọn những người buộc phải nhập ngũ.
Có nhiều lý lẽ biện minh cho việc xóa bỏ hoặc
tạm dừng chế độ nghĩa vụ quân sự để xây
dựng quân đội tự nguyện, chuyên nghiệp.
Chẳng hạn, tinh thần chiến đấu của quân
đội tự nguyện tốt hơn hẳn loại quân đội nghĩa vụ được phình to bởi những
người bị buộc phải cầm súng một cách bất đắc dĩ. Khả năng chiến đấu của quân đội chuyên nghiệp cao hơn hẳn "quân đội nghiệp dư". Tất
nhiên phải giả thiết rằng quân đội đó chuyên tâm làm nhiệm vụ quốc phòng, chứ
không phải lợi dụng danh nghĩa "quốc
phòng" để lao vào làm kinh tế, sa đà vào kinh doanh. Và ít nhất, cơ
chế quân đội tự nguyện sẽ không vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng và không gây ra tình trạng bất bình đẳng trước pháp luật trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Trên đây ta bàn nhiều về
biện pháp khắc phục sự vi hiến của Điều 45 Hiến pháp
2013, không phải vì muốn "cầm đèn chạy trước ô tô", mà
để chỉ ra rằng việc khắc phục vừa khả thi, vừa có lợi, và hoàn toàn không đáng
để phải tiếp tục chấp nhận sự vi hiến đó. Đã đến lúc phải thay đổi tư duy quốc
phòng cho phù hợp với tình hình thực tại. Một số ý kiến của nhà báo Huy Đức bàn về vấn đề này trong bài "Động binh, tịnh dân" rất đáng để các nhà hoạch định
chính sách quốc phòng tham khảo.
3. Bắt người dưng
thờ phụng
Điều 65 Hiến pháp 2013 quy định:
"Lực lượng vũ trang nhân dân
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế."
Thật vậy, đa số hạ sĩ quan và binh sĩ của Quân đội nhân dân Việt Nam là những công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Nghĩa vụ này được hiến định tại Điều 45 Hiến pháp 2013 trong
khuôn khổ "Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa
vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân". Hơn nữa, Hiến pháp
2013 chỉ quy định tại Điều 44 rằng "Công
dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc", và đó là đối tượng hiến định
duy nhất mà "công dân có nghĩa vụ
trung thành". Vì vậy, với tư
cách con em của Nhân dân, những công dân mặc áo lính để thực hiện nghĩa vụ quân
sự chỉ có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc và Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc và Nhân
dân.
Bất cứ chế độ nào, bất cứ chính quyền hay tổ chức
chính trị nào thực sự trung thành với Tổ quốc, thật lòng gắn bó với Nhân dân và
phục vụ Nhân dân, thì cũng được chung hưởng sự bảo vệ mà những công dân làm nghĩa vụ
quân sự dành cho Tổ quốc và Nhân dân. Ngoài khuôn khổ đó, những công dân làm nghĩa vụ quân sự không có nghĩa vụ phải trung thành thêm với bất kỳ
tổ chức nào nữa, và cũng không phải bảo vệ riêng bất cứ thứ gì.
Không chỉ quá vô lý, mà còn hết sức hài hước, khi
ép buộc cả những người không hề chịu ơn hay gắn bó với Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN), thậm chí còn oán ghét đảng ấy, lại phải "trung thành… với Đảng" và "bảo vệ… Đảng, rồi đòi hỏi cả những người không hề yêu thích chế
độ, thậm chí còn coi nó là sai lầm lịch sử, lại phải "bảo vệ… chế độ xã hội chủ nghĩa".
Tổ chức mang tên "Quân đội nhân
dân Việt Nam" có thể nhận thêm trách nhiệm "trung thành… với Đảng" và "bảo vệ… Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa". Nhưng
khi đó, nó không còn là quân đội của những
công dân làm nghĩa vụ quân sự, với
nhiệm vụ kinh điển là Quốc phòng, tức
là bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân trước nguy
cơ ngoại xâm. Vì vậy, không thể cưỡng bức những người không theo ĐCSVN phải
gia nhập quân đội ấy. Ép buộc công dân phải tham gia một tổ chức mang mầu sắc
chính trị trái với lương tâm của bản thân là vi phạm Điều 20
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, trong đó quy định rằng:
"Không ai có thể bị cưỡng bách
gia nhập một liên kết."
Tức là vi phạm cả cam kết "tuân thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên" tại Điều 12 Hiến pháp 2013.
Điều 65 Hiến pháp 2013 còn quy định rằng "lực lượng vũ trang nhân dân" phải "thực hiện nghĩa vụ quốc
tế". Nhưng "nghĩa vụ quốc
tế" là gì? Nó được xác định theo tiêu chuẩn nào và bằng cơ chế nào? Ai có
quyền ấn định cái gọi là "nghĩa
vụ quốc tế"? Nếu ấn
định sai thì phải chịu trách nhiệm thế nào trước Nhân dân về những mất mát và hy
sinh vô nghĩa?
Cho đến nay, nhãn hiệu "nghĩa vụ quốc tế", hay
tương tự, đã bị lạm dụng quá nhiều để ngụy trang cho tham vọng viễn chinh của
các thế lực cầm quyền. Khi thì vì bảo vệ
thế giới tự do, lúc lại nhằm xuất
khẩu cách mạng ra toàn thế giới. Danh nghĩa luôn mĩ miều, mà kết cục chẳng
mấy khi tốt đẹp. Ra quân luôn "trống
dong cờ mở", mà thu quân chẳng mấy lúc vinh quang. Năm xưa Liên Xô đưa quân vào Afghanistan, thì bị Mỹ và
đồng minh kịch liệt phản đối. Nay Mỹ và đồng minh lại lao vào Afghanistan để
thế chỗ sa lầy. Gọi là giúp đỡ, mà thu được là sự oán ghét của người dân sở
tại. Nhân danh cứu người, mà lại gây ra gấp bội lần chết chóc. Lấy cớ phá bỏ vũ
khí hủy diệt, mà chỉ dựa vào bằng chứng ngụy tạo của thế lực thèm khát chiến
tranh. Lúc triệt hạ bọn độc tài, hay lũ diệt chủng, thì nhân danh "nghĩa vụ quốc tế" đã
đành, nhưng khi nâng đỡ chúng lên nắm chính quyền cũng nhân danh "nghĩa vụ quốc tế" nốt. "Nghĩa vụ" kiểu gì mà tráo trở
như vậy?
Điều quan trọng là "nghĩa
vụ quốc tế" của ai? Lý tưởng của ai thì
người ấy cứ việc tự tay cầm súng mà triển khai. Tại sao lại bắt những người dân
vô can phải bỏ nước ra đi, hy sinh xương máu ở xứ xa xăm, cho thứ "nghĩa vụ quốc tế" được
ấn định bởi cảm tính của giới cầm quyền?
Tóm lại, việc
quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN, có
nhiệm vụ bảo vệ ĐCSVN, chế độ xã hội chủ nghĩa và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (tại
Điều 65 Hiến pháp 2013) là vi phạm quy định "công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự"
để "bảo vệ Tổ quốc" (tại Điều 45 Hiến pháp 2013).
Phải khắc phục sự vi hiến của Điều 65 Hiến pháp 2013 như thế nào? Cách đơn
giản nhất là xóa bỏ nội dung "kỳ dị"
ấy ra khỏi Điều 65. Ngược lại, nếu vẫn muốn bám giữ nó, thì phải sửa lại Điều 45 theo hướng xóa
bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự và xây dựng một quân đội chỉ tuyển chọn những người tự nguyện. Khi đó, thế lực điều
khiển quân đội có thể đề ra những yêu cầu và nhiệm vụ theo ý họ, còn công dân
thì tự xác định xem bản thân có chấp nhận gia nhập quân đội ấy hay không. Tất
nhiên, để có thể đòi hỏi quân đội phải trung thành với đảng và bảo vệ đảng, thì
ĐCSVN còn phải chi tiền riêng để nuôi
những người lính tự nguyện, không thể phó mặc trách nhiệm chu cấp quân đội cho
người dân đóng thuế.
4. Tước đoạt quyền
sở hữu
Điều 53 Hiến pháp
2013 quy định:
"Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý."
Điều này là vi hiến. Để chứng minh kết luận này, ta sẽ quay về cái thời mà sở hữu đất đai còn chưa rơi vào tình
trạng "hỗn loạn pháp lý", rồi
sử dụng phương pháp quy nạp để đến với
thực tại.
Hiến pháp 1946 – tức là hiến pháp đầu tiên của chế độ này – chỉ có một
điều duy nhất đề cập đến quyền sở hữu,
đó là:
"Điều thứ 12 Quyền tư hữu
tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm."
Hiển nhiên, đất đai là một dạng tài sản, do đó quyền tư hữu đất đai của công dân cũng được Hiến pháp 1946 bảo đảm. Đó là điều đã trở thành hiển
nhiên và cũng là lời cam kết long trọng của chế độ này khi mới ra đời.
Hiến pháp 1959 quy định:
"Điều 14 Nhà nước chiếu
theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về
ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của
nông dân…"
"Điều 18 Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác."
Như vậy, Hiến pháp 1959 tiếp tục
thừa nhận "quyền sở hữu về ruộng đất… của nông dân", và "quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở". Rõ ràng, đất
đai được người dân mua bằng thu nhập hợp pháp là "của cải thu nhập hợp pháp", vừa để sử dụng ngay, vừa là của cải để dành, và khái niệm "nhà ở" tất nhiên gắn liền với
đất ở. Hơn thế nữa, Hiến pháp 1959
cũng thừa nhận cả "quyền thừa kế tài
sản tư hữu của công dân". Do đó, đất
đai mà người dân đã khai khẩn trước khi Hiến pháp 1959 (Điều 12) quy định "đất
hoang… thuộc sở hữu toàn dân", hoặc đã mua hay thừa kế trước khi
Hiến pháp 1959 hết hiệu lực vào ngày 19/12/1980, chắc chắn thuộc "quyền sở hữu của công dân"
được "Nhà nước bảo hộ".
Hiến pháp thời đó không cho bất cứ thế lực nào, kể cả ĐCSVN, được phép xâm phạm
quyền sở hữu tư nhân về đất đai.
Không tổ chức và cá nhân nào, kể cả tập thể Quốc hội và cá nhân các đại biểu
Quốc hội, được phép phủ nhận quyền sở hữu
tư nhân về đất đai.
Khi Quốc hội khóa VI (1976-1981) thông qua Hiến pháp 1980 vào ngày 18/12/1980 thì Hiến pháp 1959 vẫn còn nguyên hiệu lực. Cho nên, việc Quốc hội khóa VI biểu quyết xóa bỏ quyền
sở hữu hợp pháp của tư nhân về đất đai và ấn định rằng toàn bộ "đất đai… thuộc sở
hữu toàn dân" (Điều 19 Hiến pháp
1980) là vi
phạm thô bạo Hiến pháp đang có hiệu lực.
Trong một chế độ Cộng hòa, nơi
mà "tất cả quyền lực… đều thuộc vào
Nhân dân" (Điều 4 Hiến pháp 1959), thì việc xóa bỏ quyền sở hữu
của người dân về đất đai là sự vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng nhất. Hành động
vi hiến đó mặc nhiên phủ định tư cách hợp hiến của Quốc hội khóa VI (đại
diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của Nhân dân), và vì vậy cũng phủ định luôn cả quyền "Làm Hiến pháp
và sửa đổi Hiến pháp" của tổ chức ấy, vốn được hiến định tại Điều 50 Hiến pháp 1959. Nếu chế độ này thực sự dân chủ,
thì các đại biểu Quốc hội khóa VI đã "có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ" vì "tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân", như đã được hiến định tại Điều 5 Hiến pháp 1959.
Cần nhấn mạnh thêm rằng, việc Quốc hội khóa VI quyết định quốc hữu hóa toàn bộ đất đai bằng mĩ từ
"sở hữu toàn dân" cũng vi phạm cả Điều 20 Hiến pháp 1959, quy định rằng:
"Chỉ khi nào cần thiết vì
lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường
thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và
điều kiện do pháp luật quy định."
Bởi vì Quốc hội khóa VI chỉ hiến
định việc tước bỏ quyền sở hữu tư nhân về
đất đai, bao gồm cả nơi sản xuất và kinh doanh – là "tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn" – mà không kèm theo một giải pháp bồi thường
nào cả. Trên thực tế, kể từ đó đến nay, Nhà nước không hề tiến hành bồi thường và cũng chẳng có ý định bồi thường cho những người bị mất quyền
sở hữu đất đai.
Quy định sai trái rằng "đất
đai… thuộc sở hữu toàn dân" không chỉ vi hiến theo Hiến pháp 1959, mà còn vi
hiến đối với cả Hiến pháp 1980. Bởi vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân
nằm trong diện được đề cập tại Điều 27 Hiến pháp 1980:
"Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động
riêng lẻ."
"Pháp luật bảo hộ quyền
thừa kế tài sản của công dân."
Chính điều hiến định này tiếp tục
bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về đất đai
kể cả khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực.
Không chỉ dừng lại ở giai đoạn đó. Chừng nào Hiến pháp kế tiếp còn
thừa nhận "quyền sở hữu của công
dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, công cụ
sản xuất…" và thừa nhận "quyền thừa kế tài sản của công dân",
thì chừng ấy Hiến pháp vẫn thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai, và quy
định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân" vẫn là vi hiến. Trên thực tế, hai nội dung vừa kể đã được duy trì tại Điều 58 Hiến pháp
1992:
"Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở,
tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…"
"Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp và quyền thừa kế của công
dân."
"1. Mọi người có quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác."
"2. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế
được pháp luật bảo hộ."
Hơn thế nữa, việc "quốc hữu hóa" đất
đai vốn thuộc sở hữu tư nhân thành "sở hữu toàn dân" bị ngăn cấm bởi Điều 23 Hiến pháp
1992:
"Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức không bị
quốc hữu hoá."
"Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh
doanh được pháp luật bảo hộ và không bị
quốc hữu hóa."
Tóm lại, trong suốt năm đời Hiến pháp của chế độ này,
nếu không phải có được do tham nhũng hay cướp bóc, thì đất đai của tư nhân luôn
thuộc phạm trù "thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất" hoặc là tài sản "thừa kế", phải "được pháp luật bảo hộ". Ít
nhất thì đất đai mà người dân đã từng sở hữu hợp pháp
trước khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực luôn là "tài sản hợp pháp của cá
nhân". Do đó, Hiến pháp luôn thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với dạng đất đai ấy.
Và đương nhiên, quy định "đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân",
như tại Điều 53 Hiến pháp 2013, luôn là vi hiến. Nó vi hiến ngay từ lúc "thoát
thai", khi Hiến pháp 1959 còn có hiệu lực, vì vi phạm Điều 14, Điều 18, Điều 19 và Điều 20. Nó vi hiến
cả trong cái "nôi chào đời"
là Hiến pháp 1980, vì vi phạm Điều 27. Nó tiếp tục vi
hiến trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, vì vi phạm Điều 23 và Điều 58. Giờ đây, nó vẫn vi hiến, vì vi phạm Điều 32 và Điều 51 của Hiến pháp 2013.
Hơn thế nữa, Điều 53 Hiến pháp 2013 còn vi phạm cả Điều 17
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, quy định rằng:
"1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tài sản tập
thể.
2. Không được tước đoạt tài sản
của bất kỳ ai một cách tùy tiện."
Tức là vi phạm cam kết
"tuân thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên" tại Điều 12 của Hiến pháp 2013.
Không còn nghi ngờ gì nữa, xét về mọi phương diện, Điều 53 Hiến pháp 2013 là vi hiến! Khắc phục
thế nào đây? "Cái gì của Xê-da hãy
trả lại cho Xê-da", đừng tham lam, tiếc nuối… tài sản của người khác.
Hãy xóa bỏ điều khoản áp đặt mang tính chiếm đoạt, ngụy danh "đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân". "Nhất cử lưỡng
tiện", vừa khắc phục một điều khoản vi hiến, vừa giúp chế độ thoát khỏi một sa lầy, như đã trao đổi
trong bài "Hai tử huyệt
của chế độ".
5. Chiếm quyền lực
Nhân dân
Điều 2 Hiến pháp
2013 long trọng cam kết:
"1.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân."
"2. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…"
5.1.
Nếu "tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân" thì tối thiểu quyền lựa chọn và xác định
"lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" cũng phải "thuộc
về Nhân dân". Đây là quyền cơ bản nhất, cốt lõi nhất trong số các "quyền lực nhà nước". Chỉ khi
Nhân dân thực thi quyền cơ bản ấy thì Nhà nước mới có thể coi là "của Nhân dân, do Nhân dân", mới
thể hiện được rằng Nước này "do Nhân
dân làm chủ". Song trên thực tế, chưa bao giờ Nhân dân bầu ĐCSVN làm
"lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Vậy thì tại
sao các nhà lập hiến lại ghi vào Điều 4 Hiến pháp 2013 rằng "Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội"?
Không thể ngụy biện rằng
Nhân dân đã ủy nhiệm cho Quốc hội thực hiện cái quyền xác định "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Vì sao?
Thứ nhất, các
đại biểu Quốc hội chỉ được bầu ra từ danh sách do bộ máy cầm quyền lựa chọn, dù
cử tri bỏ phiếu cho ai thì trúng cử cũng là người của nhà cầm quyền, nên Quốc
hội chỉ đại diện cho thế lực cầm quyền, không thể đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và trí tuệ của toàn thể Nhân dân.
Thứ hai, trong số
các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội
được hiến định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 (tức là Hiến
pháp có hiệu lực tại thời điểm mà Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013) và tại Điều 70 Hiến pháp 2013, không
có bất cứ điều khoản nào cho phép Quốc hội bầu ra một thế lực chung chung đóng
vai trò "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Cụ thể, theo
Điều 70 Hiến pháp 2013 thì Quốc hội chỉ
có quyền hạn bầu ra mấy chức danh như sau:
"Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu
cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội
thành lập."
Và nhiệm
kỳ của các chức danh đó đều được hiến định là "theo nhiệm kỳ của Quốc hội". Quốc hội chỉ được trao quyền hạn
trong một nhiệm kỳ năm năm thì
không thể được phép bầu ra những chức danh hay quyền lực vô thời hạn như tại Điều 4 Hiến pháp
2013!
Thứ ba, Quốc hội được trao
quyền "Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp", song đó là Hiến pháp được hiểu theo nghĩa lành mạnh thông
thường. Không thể lạm dụng quyền lập hiến để tùy tiện ghi vào Hiến pháp những
điều "không giống ai". Trong
các hiến pháp thông thường trên thế
giới, không thể có chuyện hiến định quyền lãnh đạo vĩnh viễn của một chính đảng
duy nhất đối với nhà nước và xã hội. Nhân danh "hoàn cảnh đặc thù", Quốc hội có thể đưa vào Hiến pháp một số nội
dung "khác thường", nhưng điều đó chỉ được coi là "hợp với lòng
Dân" nếu được đa số Nhân dân chấp thuận, thông qua phúc quyết toàn dân,
trong đó phải biểu quyết riêng rẽ cho từng nội dung cụ thể, không thể "xập xí xập ngầu biểu quyết cả
gói".
Các đại biểu Quốc hội và
cả giới cầm quyền đều biết rõ, rằng họ không thể áp đặt những đứa con do chính họ
đẻ ra sẽ phải làm gì trong 10 năm, 20 năm hay 50 năm tới. Vậy mà họ
lại ngộ nhận quyền lực, ngang nhiên áp đặt vĩnh viễn muôn dân, những người ít
nhất là bình đẳng và hoàn toàn không vướng víu gì với họ.
Giả sử Nhân dân trực
tiếp bầu "lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội", thì họ cũng thừa thông minh để hiểu rằng: Chỉ
có thể bầu cho từng nhiệm kỳ. Hiển nhiên là phải dựa vào thể hiện của
từng cá nhân và từng tổ chức trong nhiệm kỳ trước để quyết định xem có nên tín
nhiệm bầu thêm một nhiệm kỳ nữa hay không. Cũng phải xét xem đương sự có còn đủ
điều kiện về sức khỏe và trí tuệ để tái cử hay không. Chẳng ai muốn bầu một vị
công thần đã chớm bị bệnh Alzheimer tiếp tục tham gia "lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Hơn nữa, Nhân
dân của thế hệ hôm nay không có quyền quyết định thay cho cả Nhân dân của các
thế hệ mai sau. Nếu quan niệm rằng cứ sinh ra trước là có quyền áp đặt
hậu thế, thì thế hệ cầm quyền cách nay nửa thế kỷ phải tiếp tục duy trì chế độ
quân chủ, và thế hệ cầm quyền hôm nay phải tiếp tục theo đuổi "kinh tế có kế hoạch", chứ không
thể triển khai cái gọi là "kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Thế hệ này đã ăn sang cả phần
tài nguyên của các thế hệ mai sau, để lại cho họ một môi trường bị phá hủy nặng
nề cùng với những món nợ khổng lồ. Như vậy đã là quá tệ. Không thể ép các thế hệ mai sau
phải chịu đựng thêm những sai lầm hay tệ nạn mà thế hệ mình đang cam chịu.
Trong mọi trường hợp, Nhân
dân của thế hệ hôm nay và Quốc hội đương nhiệm đều không được phép hiến định quyền VĨNH VIỄN "lãnh
đạo Nhà nước và xã hội" của bất cứ "lực lượng" nào.
Tóm lại, Điều 4 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó vi phạm Điều 2 Hiến pháp 2013. Khắc
phục thế nào đây?
Nếu vẫn muốn bám giữ Điều 4 thì phải sửa lại Điều 2, xóa các nội dung "Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân", "do Nhân dân làm chủ" và "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" ra khỏi
Hiến pháp. Vì các nội dung bị xóa là những nét đặc trưng của chế độ "Cộng hòa", nên cũng phải đổi
cả tên nước, chẳng hạn thay từ "Cộng
hòa" bằng "Đảng quốc",
tương tự như mẫu từ "Vương
quốc".
Ngược lại,
nếu vẫn giữ nguyên Điều 2 cùng với
thể chế "Cộng hòa", thì chỉ
còn cách xóa bỏ nội dung Điều 4. Làm như vậy sẽ không chỉ khắc phục
được một điều vi hiến, mà còn giải
thoát cả Hiến pháp Việt Nam và ĐCSVN ra khỏi trạng thái tệ hại, như đã trao đổi
trong bài "Hai tử huyệt
của chế độ" và bài "Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp".
5.2.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội,
dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân…"
Nhiều thông tin quan trọng được cô đọng trong đoạn trích này.
Trước hết, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xác định là "tổ chức liên minh chính trị".
Thành phần của nó là
- "tổ chức chính trị",
- "các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội" và
- "các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội,
dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài."
Như vậy, các tổ chức thành viên được phân thành 3 tầng. Tầng cao nhất là "tổ chức chính trị". Tầng giữa
là "các tổ chức chính trị - xã hội". Và tầng thấp nhất là "các tổ chức xã hội" (thấp vì
không được gán cho chức năng "chính
trị"). Nhìn vào 3 chữ "các", có thể nhận ra rằng các
tác giả rất chú trọng việc nhấn mạnh trạng thái số ít, số nhiều. Cho nên, khi không viết chữ "các" trước "tổ
chức chính trị", thì có nghĩa là chỉ thừa nhận duy nhất một
"tổ chức chính trị". Có thể đoán rằng "tổ chức chính trị" duy nhất ấy chính là ĐCSVN. Tiếc rằng,
các tác giả của Hiến pháp 2013 đã phạm phải sai lầm, quên hiến định "ĐCSVN là tổ chức chính trị",
trong khi hiến định cụ thể 5 tổ chức được coi là "tổ chức chính trị - xã hội".
Nội dung kể trên đã xuất hiện trong Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 14/1999/QH10 (do Quốc hội khóa X thông qua
năm 1999), nay được Quốc hội khóa XIII hiến định hóa.
Thành phần của
tầng "các tổ chức chính trị - xã hội" được hiến định tại Khoản 2 Điều 9 Hiến pháp 2013:
"Công
đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội…"
"… là các tổ
chức chính trị - xã hội" có nghĩa
đó là tất cả, ngoài ra không còn "tổ chức chính
trị - xã hội" nào nữa. Công
nhân, "nông dân", "thanh niên", "phụ nữ" và
"cựu chiến binh" đều được coi là đủ năng lực và đủ tin cậy để tham
gia "chính trị". Vậy mà, giữa thời giới cầm quyền tung hô cái
gọi là "kinh tế tri thức"
hay "kinh tế trí thức", họ
vẫn không
chịu hay không dám gán cho Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cái nhãn "tổ chức chính trị - xã hội". Bản thân các vị cầm quyền bây giờ
mang đầy học vị và học hàm, sao họ lại e ngại và nghi kị trí thức đến như vậy?
Vì "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân",
nên các
tổ chức không thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có quyền tham gia vào những
việc quan trọng thuộc đời sống chính trị của chính quyền này. Điều đó
không có nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đều được tham gia… (Nếu không phải như vậy thì phân biệt giữa "tổ chức chính trị - xã hội"
và "tổ chức xã hội" để làm
gì?)
Trong Điều lệ Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam do Đại
hội II thông qua vào năm 1983, Điều 1 được viết như sau:
"Thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam bao gồm các tổ chức chính
trị - xã hội và những công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thiết tha với sự nghiệp đoàn kết đấu
tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa."
Vậy là
ban đầu mọi tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được thừa nhận
là "tổ chức chính trị - xã hội".
Điều đó cũng phù hợp với Điều 9 Hiến pháp
1992, quy định rằng:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân…"
Nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều
là "cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân". Song Hiến pháp 2013 đã rút lại sự "hào phóng" ấy, chỉ trao quyền làm "cơ sở chính trị…" cho "tổ chức mẹ" (tức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), và "quyền của mẹ" không có nghĩa
là "quyền của các con" (tức
các tổ chức thành viên).
Việc phân chia các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam thành 3 đẳng cấp, với ĐCSVN là tổ chức duy nhất thuộc đẳng cấp
"tổ chức chính trị" và 5 tổ chức được xác định là "các tổ chức
chính trị - xã hội", là bước đi có tính toán trên con đường… ngược chiều
dân chủ.
Điều 1 Điều lệ Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam năm 1983
(được trích dẫn ở trên) cho thấy: Chỉ những ai tán thành "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và chịu thừa nhận Tổ quốc
Việt Nam là "Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa" mới có thể là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ đó
đến nay, mặc dù Điều lệ đã được chỉnh
sửa ít nhiều để thích ứng
với tình hình, nhưng bản chất chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn không
thay đổi, trong khi lực lượng tán thành "xây
dựng chủ nghĩa xã hội" ở Việt Nam ngày càng ít đi và chỉ là thiểu số
trong Nhân dân Việt Nam. Do đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không đại diện cho
toàn thể Nhân dân Việt Nam. Vậy mà Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp
2013 lại hiến định rằng "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… đại diện… quyền… của Nhân dân".
Không hề được toàn thể Nhân dân bầu ra, thông qua bầu cử
phổ thông, mà lại đứng ra "đại diện quyền của Nhân dân" và "là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân", thì đó là bằng chứng cho việc
coi thường Nhân dân, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân". Nghĩa là Điều 9 Hiến pháp 2013 vi
phạm Điều 2 Hiến pháp 2013.
Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định
"Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội."
"Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã
hội."
Tuy nhiên, thay đổi đó không có nghĩa là Điều 4 Hiến pháp 2013 tiến bộ hơn Điều 4 Hiến pháp 1980. Vì Điều 9 Hiến pháp 2013 chỉ công nhận duy nhất một "tổ chức chính trị" trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, "là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân", nên dù bỏ đi hai chữ "duy nhất" thì cũng chỉ còn đúng
một "lực lượng lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo xã hội" mà thôi. Hơn nữa, hiến định duy nhất một "tổ
chức chính trị" có nghĩa là chỉ chấp nhận sự tồn tại của một đảng chính
trị duy nhất, đó chính là ĐCSVN. Nghĩa là Điều 9 Hiến pháp
2013 vi phạm
cả quyền tự do lập hội, được hiến
định tại Điều 25 Hiến pháp 2013. (Xem bài "Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm
hay đổi thiệt?" để thấy rằng Hiến pháp
2013 không cho phép hạn chế quyền tự do
lập hội.)
*
* *
Trên đây chỉ là mấy ví dụ, chứ không phải là tất cả các
điều khoản mâu thuẫn trong Hiến pháp 2013. Vẫn còn những hạt sạn khác, chẳng
hạn Điều 10 Hiến pháp
2013, viết rằng:
"Công đoàn Việt
Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động
được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại
diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động…"
Đằng sau điều hiến định này ẩn chứa một nội dung sâu xa:
Vì được hiến định là "tổ chức chính
trị - xã hội…", chứ không phải là "một tổ chức chính trị - xã hội…"
hay "một trong các tổ chức chính trị - xã hội…", nên "Công
đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội" duy nhất "của giai cấp công nhân và của người lao động… đại diện
cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động…". Tức là người lao động (trong đó có công
nhân) không được phép thành lập thêm những tổ chức công đoàn khác để đại diện
cho mình và bảo vệ mình, mặc dù trên thực tế Công đoàn Việt Nam không làm nổi
nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người lao động.
Như vậy, Điều 10 Hiến pháp 2013 vi phạm quyền tự do lập hội, được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp 2013.
Một số điều khoản vi hiến của Hiến pháp 2013
được truyền nhiễm từ mấy Hiến pháp trước. Lẽ ra, thời gian trôi qua thì nhận
thức cũng phải khá hơn, đủ để nhận ra và khắc phục phần nào những sai lầm ấu
trĩ đã phạm phải trong quá khứ. Nhưng tiếc thay, bên cạnh những di sản vi hiến vẫn
được "bảo toàn", lại xuất hiện thêm những sáng tạo vi hiến mới…
Điều 74 Hiến pháp 2013 quy định Uỷ ban thường
vụ Quốc hội có nhiệm vụ "giải thích
Hiến pháp…". Bao giờ thì Uỷ
ban thường vụ Quốc hội giải thích, và sẽ giải thích thế nào về những mâu thuẫn
mang tính vi hiến trong Hiến pháp 2013?
Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định: "Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp." Làm sao có thể đòi hỏi
"Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp", khi chính bản
thân Hiến pháp cũng không "phù hợp với Hiến pháp"? Biết tuân theo điều
nào của Hiến pháp khi chúng mâu thuẫn với nhau?
Đối với Hiến pháp 2013, khi thông qua nó thì Quốc hội đã tiên
phong thực hiện "hành vi vi phạm Hiến
pháp" đầu tiên. Trong các "hành
vi vi phạm Hiến pháp", thì ban hành Hiến pháp vi hiến là "hành vi
vi phạm Hiến pháp" nghiêm trọng và đáng chê trách nhất. Nghiêm trọng
bởi nó gây tác hại cho cuộc sống của hơn 90 triệu người dân và cả tương lai Dân
tộc. Nghiêm trọng bởi nó đẩy các nhà lập pháp và hành pháp rơi vào hoàn cảnh buộc
phải vi hiến, vì nếu tuân theo điều
này thì lại vi phạm điều kia. Nghiêm trọng bởi "hành vi vi phạm Hiến pháp" này mang tính "đầu têu", vì Quốc hội nêu gương xấu cho bộ máy chính quyền ở
tất cả các cấp trong việc vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Đáng chê trách bởi
lỗi này dễ tránh nhất, vì lập hiến ở vị thế chủ động, không bị lệ thuộc vào các
văn bản pháp quy khác.
Điều 119 Hiến pháp 2013 cũng quy định: "Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý." Vậy Quốc
hội sẽ "xử lý" cái "hành vi vi phạm Hiến pháp" ấy của chính
mình như thế nào?
Bất luận Quốc hội sẽ giải thích và tự xử lý thế
nào, thì chúng ta cũng phải băn khoăn với câu hỏi: Một văn bản chứa đựng nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau như thế, thì có
xứng đáng là Hiến pháp hay không?
Ngày 4 tháng 9 năm 2014
Cùng tác giả:
Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét